Đại biểu Nguyễn Thị Kim Anh trong phiên thảo luận tại hội trường, sáng 1/12.
Về sửa đổi, bổ sung Luật Lâm nghiệp, đại biểu cho biết: Tại Khoản 1 Điều 14 và Khoản 1 Điều 19 của Luật Lâm nghiệp đều quy định “Phù hợp với quy hoạch lâm nghiệp cấp quốc gia hoặc quy hoạch tỉnh hoặc quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất theo quy định của pháp luật đất đai”. Theo đó, chỉ cần sự phù hợp với một trong các quy hoạch này là đủ điều kiện (về mặt quy hoạch). Tuy vậy, thực tiễn hiện nay ở một số địa phương có tình trạng các quy hoạch này có thể không thống nhất, thiếu đồng bộ, dẫn đến cơ quan có thẩm quyền không thể giải quyết chủ trương chuyển mục đích sử dụng rừng và chuyển mục đích sử dụng đất lâm nghiệp.
Thực tiễn đặt ra yêu cầu cần có quy định pháp lý để giải quyết vướng mắc này. Do đó, đề nghị cần bổ sung quy định ngay tại Luật Lâm nghiệp (sửa đổi) theo hướng quy hoạch cấp tỉnh và quy hoạch cấp quốc gia có xung đột thì căn cứ vào quy hoạch lâm nghiệp cấp quốc gia để xem xét chủ trương chuyển mục đích sử dụng rừng.
Tại điểm a Khoản 4 Điều 21: Việc sẽ mở rộng đối tượng sử dụng tiền trồng rừng thay thế cho các hoạt động khoanh nuôi xúc tiến tái sinh rừng và các biện pháp lâm sinh khác. Đại biểu cho rằng, để việc áp dụng luật thống nhất và bảo đảm nguyên tắc sử dụng tiền chuyển mục đích sử dụng rừng linh hoạt, nhưng phải bảo đảm diện tích, độ che phủ rừng ổn định theo Nghị quyết của Đảng và quy hoạch lâm nghiệp quốc gia. Vì vậy, đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo xem xét, cân nhắc thêm một số nội dung.
Các đại biểu Quốc hội trong phiên thảo luận tại hội trường, sáng 1/12.
Về “các biện pháp lâm sinh” chưa có quy định của pháp luật hiện hành, nên việc thực hiện sẽ lúng túng. Tuy tại Khoản 5 Điều 21 của Luật Lâm nghiệp (sửa đổi) quy định “Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường quy định chi tiết Điều này”, nhưng theo các tài liệu khoa học, giáo trình lâm sinh học, thì khái niệm và nội hàm của “các biện pháp lâm sinh” rất rộng, nếu chi cho tất cả các hoạt động lâm sinh thì e rằng khó bảo đảm diện tích, độ che phủ rừng ổn định và các nhiệm vụ chi khác cho lâm nghiệp, trong khi tiền thu từ chuyển mục đích sử dụng rừng là hữu hạn.
Biện pháp lâm sinh là công cụ kỹ thuật chuyên môn để con người điều tiết hệ sinh thái rừng phát triển theo hướng mong muốn, bảo đảm hiệu quả kinh tế - sinh thái - xã hội. Nội hàm của biện pháp lâm sinh bao gồm 6 nhóm hoạt động chính sau: Tái sinh rừng; Nuôi dưỡng rừng; Chăm sóc rừng; Khai thác và tác động điều chỉnh rừng; Biện pháp bảo vệ và phục hồi rừng; Điều chỉnh môi trường và lập địa.
Do đó, đại biểu đề nghị nên quy định tại Luật về tiền chuyển mục đích sử dụng rừng chỉ chi cho hoạt động trồng rừng mới đến khi đủ tiêu chí thành rừng trong thời gian tối đa là 3 năm; khoanh nuôi xúc tiến tái sinh rừng đối với diện tích mới đến khi đủ tiêu chí thành rừng tự nhiên trong thời gian tối đa là 5 năm thay vì sử dụng cho tất cả các biện pháp lâm sinh khác.
Góp ý về sửa đổi, bổ sung Luật Trồng trọt, đại biểu Nguyễn Thị Kim Anh cho biết: Chính sách bảo vệ tầng đất mặt của đất chuyên trồng lúa nước tại Điều 57 của Luật Trồng trọt 2018 (bảo vệ và sử dụng tầng đất mặt của đất chuyên trồng lúa nước) là cơ sở duy nhất hiện nay quy định trực tiếp về bảo vệ tầng đất mặt. Trong hệ thống pháp luật hiện hành về trồng trọt, chỉ có nội dung này quy định về nghĩa vụ bóc, thu hồi, tái sử dụng tầng đất mặt, hướng tới phát triển nông nghiệp bền vững và bảo vệ tài nguyên đất. Đất trồng lúa là phần giàu dinh dưỡng, hữu cơ và vi sinh vật nhất của đất nông nghiệp, hình thành qua nhiều năm canh tác, có giá trị sinh học - kinh tế cao.
Việc bóc tách, thu hồi tầng đất mặt khi chuyển mục đích sử dụng đất trồng lúa không chỉ bảo vệ tài nguyên đất mà còn tái sử dụng nguồn đất màu mỡ cho sản xuất nông nghiệp, trồng cây xanh, cải tạo đất bạc màu, góp phần bảo đảm an ninh lương thực và phát triển nông nghiệp bền vững.
Việc bãi bỏ Điều 57 Luật Trồng trọt có thể sẽ tạo khoảng trống pháp lý trong bảo vệ tầng đất mặt, giảm trách nhiệm chủ đầu tư đối với việc bảo vệ, sử dụng tiết kiệm, hiệu quả đất trồng lúa và đất nông nghiệp, làm mất tài nguyên đất quý, giảm khả năng phục hồi sau này. Vì vậy, đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo cần nghiên cứu một cách kỹ lưỡng, không bỏ điều này mà quy định có tính nguyên tắc và giao Chính phủ hướng dẫn cụ thể với cơ chế phối hợp liên ngành tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong khâu thực thi làm cơ sở để thực hiện hiệu quả.
Cho ý kiến về sửa đổi, bổ sung Luật Đa dạng sinh học, đại biểu đề nghị bổ sung khái niệm chỉnh sửa gen vào giải thích từ ngữ, bên cạnh việc sửa đổi, bổ sung khái niệm biến đổi gen vì các lý do như sau:
- Đối với nông nghiệp, chỉnh sửa gen cho phép tạo ra các giống cây trồng chống hạn, chịu mặn, kháng sâu bệnh mà không cần đưa gen ngoại lai. Điều này có ý nghĩa rất quan trọng đối với nước ta thường xuyên phải chịu ảnh hưởng nặng nề bởi biến đổi khí hậu, xâm nhập mặn và dịch bệnh cây trồng.
- Đối với bảo tồn đa dạng sinh học, công nghệ gen đang được sử dụng để phục hồi loài quý hiếm, tăng sức chống chịu hệ sinh thái và bảo vệ nguồn tài nguyên di truyền trước tác động của môi trường.
- Nhiều nước trên thế giới như Anh, Úc, Nhật Bản cũng đã ban hành khung pháp lý rõ ràng để thúc đẩy việc chỉnh sửa gen nhưng phải bảo đảm an toàn sinh học.
Việc quy định cụ thể về chỉnh sửa gen trong Luật đa dạng sinh học nhằm khuyến khích nghiên cứu và ứng dụng có trách nhiệm, bảo đảm an toàn cho con người và môi trường, bảo vệ chủ quyền sinh học và quyền sở hữu trí tuệ quốc gia, gắn với chuẩn mực và cam kết quốc tế.
Góp ý về sửa đổi, bổ sung Luật Chăn nuôi, đại biểu cho rằng tại điểm b, khoản 1, Điều 33 nên giữ nguyên quy định khung (sản phẩm thức ăn chăn nuôi) phải được thẩm định để công bố thông tin trên Cổng dịch vụ công trực tuyến Quốc gia, còn thẩm quyền và quy trình cụ thể đề nghị giao Chính phủ hướng dẫn chi tiết để bảo đảm khả thi, phù hợp với thực tế và bảo đảm hoạt động sản xuất kinh doanh của người dân, doanh nghiệp được thông suốt.
Vân Giang