Cần 'tinh, gọn, mạnh' giáo dục đại học trong kỷ nguyên mới

Cần 'tinh, gọn, mạnh' giáo dục đại học trong kỷ nguyên mới
9 giờ trướcBài gốc
Trung tướng GS.TS Nguyễn Xuân Yêm, Viện trưởng Viện An ninh phi truyền thống, Trường Quản trị và Kinh doanh, Đại học Quốc gia Hà Nội; nguyên Giám đốc Học viện Cảnh sát nhân dân, Bộ Công an gửi tới Chuyên đề ANTG Giữa tháng - Cuối tháng bài viết về chủ đề này từ góc nhìn của người trong cuộc.
Những “điểm nghẽn” trong giáo dục đại học hiện nay
Sau hơn 10 năm triển khai thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW, ngày 4/11/2013 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI, giáo dục đại học Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Tuy nhiên, hệ thống giáo dục Việt Nam đang như một hình chóp lộn ngược. Hiện, cả nước có hơn 260 cơ sở giáo dục đại học (chưa kể các trường thuộc khối quốc phòng - an ninh) bao gồm 2 đại học quốc gia, 3 đại học vùng, 5 đại học khác và 255 trường đại học, học viện trong đó 171 cơ sở giáo dục đại học trực thuộc các bộ, ngành, cơ quan Trung ương, 26 cơ sở giáo dục đại học trực thuộc UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và 77 cơ sở giáo dục đại học tư thục.
Với tổng diện tích gần 20 ha, Học viện Cảnh sát nhân dân là một trong 2 cơ sở giáo dục đại học trọng điểm của ngành Công an.
Việc tăng số lượng các cơ sở giáo dục đại học và mạng lưới các cơ sở giáo dục đại học đang gia tăng cả về số lượng và loại hình sở hữu, đã tạo ra cơ hội tiếp cận giáo dục đại học cho mọi tầng lớp nhân dân và thúc đẩy sự cạnh tranh giữa các trường. Nhưng, mở rộng quy mô đào tạo chưa đồng bộ với kiểm soát chất lượng đã dẫn đến tình trạng nhiều sinh viên tốt nghiệp không tìm được việc làm, gây ra sự bất cập giữa cung và cầu nhân lực. Điều này khiến một số trường đã phải giải thể, sáp nhập hoặc chuyển đổi hình thức đào tạo.
Trong hơn 260 trường đại học ở Việt Nam, Bộ Giáo dục và Đào tạo chỉ quản lý trực tiếp chưa đến 50 trường. Việc chưa phân tách rạch ròi giữa quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo và các hoạt động giáo dục đào tạo cụ thể thuộc thẩm quyền nhà trường và hiệu trưởng, vì vậy còn lẫn lộn giữa quản trị quốc gia, quản trị địa phương.
Đối với giáo dục đại học, vấn đề tự chủ đại học cần có mô hình quản lý phù hợp trong bối cảnh mới. Thẩm quyền của hiệu trưởng/giám đốc cơ sở giáo dục chưa đầy đủ. Trong khi hệ thống trường công có Đảng ủy lãnh đạo toàn diện nhà trường lại đặt ra cơ chế hội đồng trường mang tính hình thức, rập khuôn theo mô hình giáo dục nước ngoài trong điều kiện các nước không có cơ chế Đảng ủy trong nhà trường.
Cần thiết sắp xếp theo hướng “tinh, gọn, mạnh”
Để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng được đòi hỏi của thời đại kinh tế tri thức và cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4, theo tôi, cần “tinh, gọn, mạnh” theo hướng giảm số cơ sở giáo dục đại học hiện nay từ 264 xuống khoảng 100-150 cơ sở giáo dục đại học.
Tập trung đầu tư cho các đại học quốc gia, đại học vùng để có các đại học mạnh đúng nghĩa, trong trường đại học có các viện nghiên cứu, nhóm nghiên cứu mạnh. Ngoài 2 đại học quốc gia là Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh, 3 đại học vùng: Đại học Thái Nguyên, Đại học Huế, Đại học Đà Nẵng hiện nay phát triển thêm 2 đại học vùng là Đại học Cần Thơ, Đại học Tây Nguyên. Không chuyển các trường đại học thành đại học như hiện nay đang làm.
Chỉ những tỉnh, thành phố có công nghiệp phát triển, các tập đoàn kinh tế lớn mới được phép thành lập trường đại học. Sáp nhập các đại học nhỏ, yếu, đào tạo đơn ngành vào 2 đại học quốc gia, các đại học vùng. Mạnh dạn giải tán các trường đại học không đủ điều kiện. Trước mắt thu hẹp lại các trường đại học sư phạm, đại học luật, đại học y tế.
Tăng cường quản trị đại học, nêu cao trách nhiệm người thầy và tăng quyền cho hiệu trưởng. Cần coi trọng quản trị trường học, nêu cao tính tiên phong, gương mẫu, đi đầu của hiệu trưởng/giám đốc. Giao quyền tự chủ cao độ cho hiệu trưởng các nhà trường (từ quyền quyết định tổ chức cán bộ, chương trình giảng dạy, tài chính, v.v...) theo mô hình phân cấp của Trung ương cho địa phương hiện nay.
Phát huy vai trò của Đảng ủy tại các trường công lập. Đề nghị bỏ hội đồng trường ở cơ sở giáo dục đại học công lập (ở các trường công lập, Đảng ủy thực chất đảm nhiệm chức năng của hội đồng trường) và chỉ giữ lại hội đồng trường ở các trường tư thục, dân lập.
Có cơ chế sử dụng đội ngũ cán bộ các cơ quan hành chính, doanh nghiệp, lực lượng vũ trang vào làm giảng viên, kể cả làm lãnh đạo các đơn vị ở các nhà trường để gắn đào tạo với thực tiễn. Từ đó, có chính sách thông thoáng xét giáo sư, phó giáo sư cho các đối tượng giảng viên này.
Tổng kết kinh nghiệm của cha ông “thầy già, con hát trẻ” của Đại học Quốc gia Hà Nội để có cơ chế giữ lại và kéo dài tuổi phục vụ của các nhà giáo đầu đàn, giỏi ở các lĩnh vực kể cả làm quản lý tại các cơ sở giáo dục đào tạo.
Ưu tiên hiện đại hóa các trường đại học. Nếu như Đảng, Nhà nước đã đề ra mốc thời gian đến năm 2030 hiện đại hóa lực lượng Quân đội, Công an thì rất cần thiết phải đưa ra mốc thời gian tương tự năm 2030 để hiện đại hóa giáo dục đại học Việt Nam.
Có lộ trình hiện đại hóa được thể hiện trên những mặt cơ bản: hiện đại hóa chương trình đào tạo; hiện đại hóa cơ sở vật chất của các nhà trường và hoạt động tổ chức giảng dạy; hiện đại hóa nguồn nhân lực của các nhà trường. Tổ chức kiểm định quốc tế trường đại học và toàn bộ các chương trình đào tạo. Tăng cường ứng dụng công nghệ số, nhất là trí tuệ nhân tạo trong toàn hệ thống giáo dục đại học theo hướng xây dựng các đại học thông minh với nhiều ngành đào tạo mũi nhọn về khoa học và công nghệ như công nghệ thông tin, an ninh mạng, công nghệ chế tạo máy, công nghệ kỹ thuật điện - điện tử, công nghệ thực phẩm, và công nghệ kỹ thuật ô tô, kỹ thuật hạt nhân, kỹ thuật bán dẫn, công nghệ môi trường hướng tới phát thải ròng bằng 0, v.v...
Khuôn viên Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh.
Xây dựng các trung tâm, viện nghiên cứu mạnh trong các cơ sở giáo dục đại học. Nhà nước giao các cơ sở giáo dục đại học lớn chủ trì các chương trình khoa học, công nghệ trọng điểm quốc gia. Khuyến khích các cơ sở giáo dục đại học dạy và học bằng tiếng Anh. Trước mắt, đến năm 2030 hiện đại hóa 2 đại học quốc gia, 3 đại học vùng, một số trường kỹ thuật và một số học viện, nhà trường thuộc Bộ Quốc phòng, Bộ Công an.
Nghiên cứu kinh nghiệm các nhà trường như Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh, Học viện Cảnh sát nhân dân, Học viện Lục quân, Đại học FPT, Học viện Nông nghiệp Việt Nam, Trường Đại học Đà Lạt... để xây dựng các cơ sở giáo dục đại học theo mô hình “nhà trường - công viên”, nhà trường xanh, thực hiện cam kết của Việt Nam đưa phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050.
Phát huy xây dựng các viện nghiên cứu mạnh, các nhóm nghiên cứu mạnh trong các trường đại học như Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh, Đại học Bách khoa Hà Nội,... đã tiến hành.
Tăng cường hợp tác quốc tế về giáo dục đào tạo. Phát huy mô hình thu hút đầu tư nước ngoài của Tổ chức Đông Tây hội ngộ đầu tư xây dựng các thư viện hiện đại tại Đại học Đà Nẵng, Đại học Thái Nguyên, Đại học Huế, mô hình thư viện điện tử tại Học viện Cảnh sát nhân dân do Cơ quan hợp tác quốc tế Hàn Quốc (KOICA) tài trợ, các mô hình đại học Việt - Đức, Việt - Nhật, Đại học Anh quốc, Đại học Việt - Pháp, RMIT Việt Nam... khuyến khích đầu tư nước ngoài trong giáo dục và đào tạo tại Việt Nam và từ Việt Nam ra nước ngoài.
Có cơ chế mời, thu hút các nhà khoa học giỏi các nước vào công tác, giảng dạy đại học tại Việt Nam. Xây dựng các nhà trường, trung tâm, viện nghiên cứu, tạp chí khoa học liên doanh giữa Việt Nam và nước ngoài. Khuyến khích các trường đại học uy tín của nước ngoài đặt cơ sở, chi nhánh tại Việt Nam.
Chúng ta đã “vẽ lại giang sơn về hành chính”, cần thiết phải “vẽ lại giang sơn giáo dục và đào tạo” nói chung, “vẽ lại giang sơn giáo dục đại học” nói riêng để có thể đào tạo đầy đủ và với nguồn nhân lực chất lượng cao cho kỷ nguyên phát triển mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam.
Trung tướng, GS.TS Nguyễn Xuân Yêm
Nguồn ANTG : https://antgct.cand.com.vn/nguoi-trong-cuoc/can-tinh-gon-manh-giao-duc-dai-hoc-trong-ky-nguyen-moi-i779337/