Hệ lụy của vẹo cột sống
Nhiều phụ huynh lo lắng trước tình trạng trẻ bị cong vẹo cột sống, nhất là khi các em dành nhiều thời gian sử dụng thiết bị điện tử. Chị Đặng Hà Anh (Bắc Ninh) chia sẻ, từ khi con 4 tuổi, vợ chồng chị thường cho xem điện thoại, tivi để tránh mè nheo. Sau vài năm, chị nhận thấy con ngồi gù, lệch vai, dù được nhắc cũng chỉ ngồi thẳng trong chốc lát rồi lại sai tư thế.
Bác sĩ tư vấn cho trẻ đến khám do cong vẹo cột sống. Ảnh: BV Hữu nghị Việt Đức
Trường hợp của chị Hà Anh không phải cá biệt. Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức đã tiếp nhận nhiều trẻ bị cong vẹo cột sống nặng. Đơn cử, trường hợp bệnh nhân N.T. (16 tuổi, Quảng Ninh) bị vẹo cột sống 120 độ sang phải, gây hạn chế vận động và rối loạn thông khí phổi. Sau cơn sốt khi 2 tuổi, trẻ yếu các chi, được chẩn đoán viêm đa rễ dây thần kinh kèm cong vẹo cột sống. Bệnh tiến triển khiến hình thể biến dạng, vai phải nhô cao và khó cúi, gập người.
PGS.TS Đinh Ngọc Sơn - Khoa Phẫu thuật Cột sống (Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức) cho biết, vẹo cột sống khởi phát sớm nếu không phát hiện kịp thời sẽ gây biến dạng lớn cột sống và lồng ngực, ảnh hưởng tới chức năng tim phổi. Vẹo khởi phát quá sớm có thể ảnh hưởng tới hô hấp, thậm chí gây tử vong. Do đó, việc phát hiện sớm và có chiến lược điều trị đúng là yếu tố quan trọng giúp đạt được thành công trong kiểm soát và tối đa hiệu quả phương án điều trị.
Để chẩn đoán vẹo cột sống, chụp X-quang là biện pháp tốt nhất chẩn đoán vẹo cột sống. X-quang phải đảm bảo lấy được toàn bộ cột sống. Trong khi đó, phương pháp siêu âm, chụp cắt lớp vi tính, chụp cộng hưởng từ giúp chẩn đoán nguyên nhân gây vẹo, dị tật kèm theo, cũng như lập kế hoạch điều trị.
Điều trị tùy theo triệu chứng
Theo PGS.TS Đinh Ngọc Sơn, có nhiều nguyên nhân dẫn tới vẹo cột sống, tựu chung có thể chia thành 4 nhóm. Nhóm đầu tiên là vẹo cột sống bẩm sinh do bất thường trong mang thai và hình thành cột sống như vẹo do dị tật thân đốt sống… Nhóm thứ hai là vẹo thần kinh cơ do bất thường về hệ cơ, thần kinh như bệnh bại não... Thứ ba là vẹo do hội chứng như: vẹo trong bệnh u xơ dây thần kinh… Cuối cùng là vẹo cột sống vô căn: không tìm thấy căn nguyên nào.
"Chưa có nghiên cứu nào chỉ ra rõ yếu tố nguy cơ trong vẹo cột sống. Các nghiên cứu chỉ ra không có mối liên quan giữa việc ngồi học và vẹo cột sống. Tuy nhiên, có một số yếu tố có thể làm tăng nguy cơ, như: gia đình có người vẹo, mang thai có bất thường thai sản, thuốc, bất thường về gen…" - PGS.TS Đinh Ngọc Sơn thông tin.
Về phương pháp điều trị, theo PGS Sơn, tùy theo mức độ nặng nhẹ, độ tuổi, sự tiến triển, chất lượng xương, chức năng tim phổi mà có phương án điều trị khác nhau. Trong đó, với vẹo cột sống nhỏ, ít nguy cơ tiến triển, có thể theo dõi định kì 6 tháng, hoặc 1 năm một lần. Với đường cong lớn, nguy cơ tiến triển, phương pháp bó bột hoặc đeo áo nẹp sẽ giúp ngăn chặn tiến triển đường cong, hoặc trì hoãn thời gian phẫu thuật để cột sống phát triển tối đa. Với vẹo tiến triển nhanh, vẹo nặng, nguy cơ cao, phẫu thuật là biện pháp hiệu quả. Vẹo cột sống nếu được phát hiện và điều trị sớm sẽ mang lại hiệu quả cao. Nếu cha mẹ nhận thấy những dấu hiệu bất thường của con, cần cho trẻ đi khám sớm để phát hiện bệnh. Việc tập luyện chủ yếu phát triển thể chất cho trẻ, rất ít tác dụng thay đổi mức độ vẹo. Tuy nhiên, tập luyện giúp phát triển tốt thể chất và chức năng hệ tim phổi. Đây cũng là biện pháp phối hợp hữu hiệu.
Để phòng ngừa tình trạng trẻ em bị vẹo cột sống, ThS.BSNT Tạ Ngọc Hà - Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh Hà Nội khuyến cáo, trẻ cần tập thể dục định kỳ để tăng cường sức mạnh cho cơ lưng, cơ bụng. Từ đó, ngăn ngừa sự hình thành và tiến triển của chứng vẹo cột sống. Ngoài ra, cần duy trì chế độ ăn uống lành mạnh để tăng mật độ xương. Duy trì cân nặng hợp lý để tránh gây áp lực cho cột sống. Trẻ cũng cần thực hành tư thế đúng trong cuộc sống hàng ngày, từ ngồi, đi, đứng, nằm…
Theo BS Hà, trẻ bị cong vẹo cột sống vẫn có thể tập luyện bình thường để tăng cường sức mạnh cơ, xương và cải thiện linh hoạt. Hoạt động thể chất không làm tình trạng vẹo nặng hơn mà còn giúp giảm đau lưng rõ rệt. Một số môn phù hợp như bơi lội, thể dục dụng cụ. Tuy nhiên, trẻ vừa phẫu thuật lưng cần tránh môn có va chạm mạnh như bóng đá, khúc côn cầu; có thể trở lại với bóng rổ, quần vợt, bơi lội sau khoảng sáu tháng. Cha mẹ nên tham khảo ý kiến bác sĩ trước khi cho trẻ tập để bảo đảm an toàn và phục hồi hiệu quả.
Đức Trân