Cảnh báo tình trạng suy giảm nhận thức do lạm dụng trí tuệ nhân tạo

Cảnh báo tình trạng suy giảm nhận thức do lạm dụng trí tuệ nhân tạo
2 giờ trướcBài gốc
Nguy cơ "rỗng não do AI"
Bà Rakhee Das, Tiến sĩ Đại học Amity, chuyên gia AI quốc tế cho biết: Ứng dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo tăng nhanh chóng trong năm qua với mức tăng hơn 400%. Dự báo năm 2025, các công ty toàn cầu sẽ đầu tư hơn 200 tỷ USD vào lĩnh vực này. Thực tế ghi nhận AI giúp ngành y tế phát hiện bệnh nhanh hơn 30%, giảm 40% gian lận trong tài chính và tăng tới 45% năng suất khối văn phòng.
Ông Chu Tuấn Anh, Giám đốc đào tạo Hệ thống Lập trình viên quốc tế Aptech chia sẻ thông tin về hiện tượng "rỗng não" do sử dụng AI.
Tuy nhiên, bà Rakhee Das cảnh báo về sự xuất hiện của thế hệ "copy-paste". Theo bà, vấn đề lớn nhất hiện nay là sinh viên và nhân sự trẻ sử dụng AI mà bỏ qua việc học kiến thức nền tảng. Khi quá phụ thuộc, tư duy phản biện giảm xuống, kiến thức cơ bản yếu đi và kỹ năng giải quyết vấn đề biến mất. Nếu xu hướng này tiếp tục, lực lượng lao động tương lai sẽ mất khả năng suy nghĩ độc lập.
Bà Rakhee Das lấy ví dụ, nhiều học sinh, sinh viên hoàn thành tốt bài tập về nhà, nhưng không thể trả lời trực tiếp các câu hỏi đơn giản, sau đó được phát hiện đã nhờ AI giúp làm bài. Nhiều sinh viên trẻ mất dần kỹ năng thật. Tư duy của các em yếu đi vì AI làm hết phần việc. Đây là tình trạng rỗng não (AI brainlessness), xuất hiện nhiều kể từ sau sự bùng nổ của các ứng dụng tạo sinh.
Đồng quan điểm, ông Chu Tuấn Anh, Giám đốc đào tạo Hệ thống Lập trình viên quốc tế Aptech, gọi đây là hiện tượng "suy giảm nhận thức do AI". Ông lấy ví dụ về việc lệ thuộc vào bản đồ số (Google Maps). Trong đợt ngập lụt tại Hà Nội gần đây, nhiều tài xế chỉ biết đi theo chỉ dẫn của bản đồ mà mất đi khả năng định vị thực tế và phán đoán rủi ro, dẫn đến việc đi vào đường ngập sâu.
Theo phân tích, quá trình suy giảm nhận thức này không diễn ra ngay lập tức mà trải qua ba cấp độ, từ thói quen lười biếng đến sự lệ thuộc hoàn toàn.
Cấp độ đầu tiên là "lười tư duy", thường xuất hiện sau 1 đến 3 tháng sử dụng AI liên tục. Người dùng có xu hướng chấp nhận ngay kết quả máy đưa ra, sao chép để báo cáo hoặc chạy mã lệnh (code) mà không đặt câu hỏi tại sao, cũng không kiểm chứng tính chính xác.
Cấp độ thứ hai là "mất kỹ năng", thường xảy ra sau 3 đến 6 tháng. Khi đó, nhân sự không thể hoàn thành công việc nếu thiếu công cụ hỗ trợ.
Một lập trình viên có thể quên cách viết các thuật toán cơ bản, hoặc một nhân viên nội dung bí ý tưởng hoàn toàn nếu không có gợi ý từ ChatGPT.
Nguy hiểm nhất là cấp độ "mù nhận thức". Lúc này, AI đưa ra một kết quả sai hoặc kém chất lượng, nhưng người dùng không còn đủ kiến thức nền tảng để nhận ra lỗi sai đó.
"Đây là giai đoạn con người hoàn toàn bị công cụ dẫn dắt, gây nguy hại không chỉ cho sự nghiệp cá nhân mà còn ảnh hưởng đến doanh nghiệp, thậm chí cả quốc gia", ông Tuấn Anh nhấn mạnh.
Ở cấp độ rộng hơn, hệ quả có thể là lực lượng lao động suy giảm, năng suất tụt hạng. "Nếu không có hướng đi đúng, khoảng 3-5 năm nữa, chúng ta có một thế hệ biết dùng AI nhưng không biết làm gì, đánh mất lợi thế cạnh tranh so với những quốc gia vẫn giữ được tư duy gốc", ông Tuấn Anh nhận định.
Cảnh báo về nguy cơ thoái hóa não do AI không mới. Hồi tháng 6, nghiên cứu kéo dài bốn tháng của nhóm chuyên gia từ MIT Media Lab cũng phát hiện người dùng chatbot AI có hoạt động não và trí nhớ suy giảm.
Việc sử dụng ChatGPT quá thường xuyên có thể khiến não bộ của người dùng hoạt động kém hơn.
Theo đó, hững người sử dụng ChatGPT có mức kết nối não bộ giảm 47% (từ 79 điểm xuống còn 42 điểm) và 83,3% không thể nhớ lại các câu văn mình vừa viết chỉ vài phút sau đó, trong khi nhóm không dùng AI duy trì mức độ tương tác não bộ cao hơn rõ rệt.
Hiện tượng kém hiệu suất về trí nhớ và tính sáng tạo vẫn kéo dài ngay cả khi chuyển từ dùng AI sang viết tay hoàn toàn, được các nhà nghiên cứu gọi là “nợ nhận thức” (cognitive debt). Các bài luận của nhóm dùng AI dù hoàn thành nhanh hơn nhưng bị giáo viên đánh giá nông cạn và kém sâu sắc hơn.
Kết quả cho thấy chỉ khi tích hợp AI một cách có chủ đích thì mới đạt kết quả tối ưu: Nhóm sử dụng phương pháp lai (bắt đầu viết tay trước, sau đó mới nhờ AI hỗ trợ chỉnh sửa/mở rộng) đạt hoạt động thần kinh và khả năng nhớ lại cao nhất. Tuy nhiên, do quy mô mẫu nhỏ nên kết luận hiện tại chỉ chắc chắn trong phạm vi nhiệm vụ học thuật, chưa thể khái quát rộng rãi.
Từ góc độ doanh nghiệp công nghệ, ông Nguyễn Quang Tuấn, Chuyên gia AI tại Viettel, chia sẻ thực trạng về việc lạm dụng tính năng sinh mã tự động (Gen Code). Nhiều lập trình viên hiện nay tạo ra sản phẩm rất nhanh nhờ AI, nhưng thiếu chiều sâu về tư duy logic. Rủi ro lớn nhất là việc lập trình viên trở nên lỗi thời (outdate) vì chỉ biết dùng AI để viết code chạy được mà không hiểu bản chất bên trong.
Ông Tuấn cũng chỉ ra các mô hình AI là tập hợp tri thức của nhân loại, nhưng cũng chứa cả "rác" hay những thông tin sai lệch. Nếu nhân sự chỉ đưa ra những câu lệnh (prompt) hời hợt như "viết cho tôi màn hình đăng nhập" mà không có bối cảnh cụ thể, sản phẩm tạo ra sẽ tiềm ẩn nhiều lỗ hổng. Ông Tuấn cho rằng, sử dụng AI là rất tốt, nhưng sử dụng có trách nhiệm, hiệu quả lại là một câu chuyện khác.
Biện pháp khắc phục
Để giải quyết bài toán này, các chuyên gia thống nhất không thể cấm đoán AI, mà cần thay đổi phương pháp tiếp cận. Ông Chu Tuấn Anh đề xuất công thức "3T" như một giải pháp để người dùng làm chủ công nghệ thay vì bị công nghệ chi phối.
Thứ nhất là Think First (tư duy trước). Trước khi yêu cầu AI hỗ trợ, người dùng cần dành thời gian (khoảng 3 phút) để tự tư duy về vấn đề, hình dung dàn ý hoặc giải pháp trong đầu. Việc này giúp não bộ được kích hoạt và duy trì khả năng tư duy độc lập.
Chữ T thứ hai là xem AI như Tool (công cụ) không phải Tutor (gia sư hay người thầy). Người dùng cần xác định AI chỉ là công cụ hỗ trợ, không phải là người làm thay hay người thầy toàn năng. Cách sử dụng hiệu quả là tự thực hiện công việc, sau đó dùng AI để sửa lỗi, tối ưu hóa hoặc phản biện lại ý tưởng.
Cuối cùng là Techback (dạy lại). Đây được xem là bước quan trọng nhất để chuyển hóa thông tin từ máy thành kiến thức của người. Sau khi có kết quả từ AI, người dùng cần thực hành giải thích lại kiến thức đó cho người khác hoặc tự diễn giải lại.
"Chúng ta không nên sợ AI. Lịch sử nhân loại đã chứng kiến sự chuyển dịch từ đồ đá, đồ đồng sang máy hơi nước và máy tính. Ai nắm bắt và làm chủ công cụ mới sẽ là người chiến thắng. Chúng ta hãy làm chủ AI để có được một tương lai tốt đẹp”, đại diện Aptech kết luận.
Ông Lê Công Năng, chuyên gia AI, Chủ nhiệm Cộng đồng AI for Business cho rằng: “Dùng AI nhiều sẽ rỗng não” xuất phát từ sự lo ngại có thật, nhưng cần được nhìn nhận một cách cân bằng. AI đúng là có thể khiến con người lười suy nghĩ nếu ta phó mặc hoàn toàn, giống như khi máy tính cầm hộ việc tính toán, ta dễ quên cách làm bằng tay.
“Tuy nhiên, vấn đề không nằm ở công nghệ, mà nằm ở cách chúng ta sử dụng nó. AI là một công cụ tăng năng suất, không phải một bộ não thay thế. Với những doanh nghiệp mà tôi đào tạo, điều đầu tiên tôi nhấn mạnh là: AI giúp làm nhanh hơn, chứ không giúp làm đúng hơn nếu bản thân người dùng không có nền tảng kiến thức. Đơn cử như: Một hướng dẫn viên không hiểu văn hóa thì AI không viết nổi bài thuyết minh hay; một điều hành tour không biết nghiệp vụ thì AI không thể xây lịch trình chính xác. AI chỉ phóng đại những gì người dùng đang có. Thực tế cho thấy, những người sử dụng AI thường xuyên và đúng cách lại học nhanh hơn, cập nhật kiến thức tốt hơn, vì họ có cơ hội tiếp cận thông tin đa chiều và rút ngắn vòng lặp thử–sai.
Điều quan trọng nhất là giáo dục tư duy: AI hỗ trợ, con người quyết định; AI tổng hợp, con người phân tích; AI tạo bản nháp, con người hoàn thiện. Nếu biết đặt câu hỏi đúng, kiểm chứng thông tin và phát triển tư duy phản biện, AI không làm ta kém đi mà làm ta nhanh hơn, mạnh hơn và cạnh tranh hơn trong thời đại mới.
XM/Báo Tin tức và Dân tộc
Nguồn Tin Tức TTXVN : https://baotintuc.vn/xa-hoi/canh-bao-tinh-trang-suy-giam-nhan-thuc-do-lam-dung-tri-tue-nhan-tao-20251209150842912.htm