Biên phòng Đà Nẵng kêu gọi tàu thuyền vào bờ tránh bão. Ảnh C.P.
Bắt đầu từ giao khu vực biển
Các chuyên gia Trung tâm Thông tin, dữ liệu biển và hải đảo quốc gia thuộc Cục Biển và Hải đảo Việt Nam (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) cho biết, quá trình thực hiện việc chuyển đổi số, Trung tâm Thông tin, dữ liệu biển và hải đảo quốc gia đã chọn giao khu vực biển, một thủ tục thiết yếu trong quản lý tài nguyên biển, làm khởi đầu cho toàn bộ tiến trình chuyển đổi số. Các chuyên gia của Trung tâm Thông tin, dữ liệu biển và hải đảo quốc gia nhấn mạnh, việc thực hiện chuyển đổi số thủ tục giao biển có tính khả thi cao, khi hạ tầng dữ liệu bước đầu đã hình thành, quy trình được quy định và một số địa phương đã triển khai thực tế.
Theo đó, khu vực biển giao cho tổ chức, cá nhân là một phần của vùng biển Việt Nam có vị trí, tọa độ, ranh giới, diện tích, độ sâu cụ thể được xác định bởi một hoặc nhiều thành phần bao gồm mặt biển, khối nước biển, đáy biển, lòng đất dưới đáy biển được xác định và thể hiện trên bản đồ khu vực biển. Giao khu vực biển là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định cho tổ chức, cá nhân được phép sử dụng một hoặc nhiều khu vực biển nhất định trong khoảng thời gian xác định để thực hiện hoạt động khai thác, sử dụng tài nguyên biển.
Ông Võ Xuân Hùng - Giám đốc Trung tâm Thông tin, dữ liệu biển quốc gia cho biết, việc chuyển đổi số quy trình giao khu vực biển không chỉ giúp tinh gọn thủ tục, số hóa hồ sơ mà còn góp phần đảm bảo quản lý tổng hợp, thống nhất, liên ngành từ trung ương tới địa phương. Điều này có ý nghĩa rất lớn trong cân bằng giữa phát triển kinh tế - xã hội với bảo vệ môi trường và gìn giữ chủ quyền biển đảo. Đồng thời, việc số hóa quy trình giao khu vực biển sẽ đảm bảo công khai, minh bạch, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các bên khai thác tài nguyên biển, nâng cao hiệu quả sử dụng tài nguyên và giảm thiểu xung đột trong sử dụng không gian biển.
Theo ông Hùng, việc thực hiện chuyển đổi số thủ tục giao biển có tính khả thi cao, khi hạ tầng dữ liệu bước đầu đã hình thành, quy trình đã được quy định và một số địa phương đã triển khai thực tế.
Các bước triển khai
Thông tin về cơ sở dữ liệu cho quá trình chuyển đổi số, đại diện Cục Biển và Hải đảo Việt Nam cho hay, Cục đã xây dựng và vận hành hệ thống kỹ thuật hỗ trợ công tác quản lý nhà nước về giao khu vực biển cho tổ chức, cá nhân khai thác, sử dụng tài nguyên biển từ năm 2019 đến nay. Bên cạnh đó, cơ sở dữ liệu biển quốc gia về các kết quả điều tra cơ bản điều kiện tự nhiên, tài nguyên và môi trường các vùng biển Việt Nam đang được duy trì vận hành và cập nhật hàng năm ở một mức độ nhất định. Cơ sở dữ liệu này có nhiều các cơ sở dữ liệu thành phần từ tài nguyên, môi trường biển và hải đảo đến các dữ liệu về phạm vi, ranh giới pháp lý trên biển; đây là những thông tin quan trọng để tham chiếu khi thực hiện việc thẩm định và lập hồ sơ các khu vực biển được đề nghị giao sử dụng biển từ các tổ chức, cá nhân.
Trong khi đó, theo ông Võ Xuân Hùng - Giám đốc Trung tâm Thông tin, dữ liệu biển quốc gia, chuyển đổi số không đơn thuần là ứng dụng phần mềm hay trang bị hạ tầng số. Đó là cả một quá trình thay đổi nhận thức, cách làm, cách tiếp cận quản lý tài nguyên. Quá trình này không tránh khỏi những khó khăn, đặc biệt về kinh phí và nguồn lực kỹ thuật. Chính vì vậy trung tâm đã báo cáo Bộ Nông nghiệp và Môi trường để có giải pháp tháo gỡ, đảm bảo mục tiêu hoàn thành hệ thống vào cuối năm 2025.
Cục Biển và Hải đảo Việt Nam đã xác định lộ trình triển khai theo 3 bước: đầu tiên là thiết lập hệ thống dữ liệu nền, kết nối với các hệ thống dịch vụ công và quản lý biển tại các địa phương; bảo đảm công khai, chia sẻ dữ liệu cho các cơ quan quản lý, cơ quan thuế và đối tượng sử dụng biển… nâng cấp hệ thống kỹ thuật phục vụ công tác giao khu vực biển đã thực hiện trước đây và hoàn thành vào cuối năm 2025.
Bước tiếp theo, kết nối hệ thống với các cơ sở dữ liệu quốc gia như dữ liệu dân cư, thuế; tiến hành số hóa toàn bộ quy trình giao khu vực biển, tạo nền tảng cho việc điều hành thông minh. Và sau cùng là từng bước nâng cấp hệ thống, ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI) vào phân tích dữ liệu, dự báo rủi ro và hỗ trợ ra quyết định trong quy hoạch, điều chỉnh không gian khai thác biển phù hợp thực tiễn, giảm thiểu xung đột và tăng hiệu quả khai thác.
MINH QUÂN