Chấm KPI: Tỷ lệ công chức đạt mức 'hoàn thành xuất sắc' không vượt quá 20%

Chấm KPI: Tỷ lệ công chức đạt mức 'hoàn thành xuất sắc' không vượt quá 20%
13 giờ trướcBài gốc
Kết quả đánh giá cơ quan là căn cứ trực tiếp để đánh giá người đứng đầu
Theo đó, đối tượng áp dụng Nghị định là cơ quan hành chính nhà nước quy định tại khoản 1 Điều 1 dự thảo Nghị định, bao gồm: Cơ quan hành chính nhà nước ở Trung ương: Bộ, cơ quan ngang Bộ; Vụ, Cục và tương đương thuộc Bộ, cơ quan ngang Bộ; Phòng và tương đương thuộc các Vụ, Cục và tương đương thuộc Bộ, cơ quan ngang Bộ. Cơ quan hành chính nhà nước ở cấp tỉnh, cấp xã: Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh); Ủy ban nhân dân xã, phường, đặc khu (sau đây gọi chung là cấp xã); Cơ quan chuyên môn và tổ chức hành chính khác thuộc Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp xã; Phòng và tương đương thuộc cơ quan chuyên môn và tương đương thuộc Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh. Công chức trong các cơ quan của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức chính trị - xã hội từ Trung ương đến cấp xã. Công chức giữ chức danh lãnh đạo, quản lý thuộc diện Ban Bí thư quản lý thực hiện việc đánh giá, xếp loại chất lượng theo quy định của cơ quan có thẩm quyền.
Ảnh minh họa
Việc đánh giá cơ quan hành chính Nhà nước được tiến hành định kỳ mỗi năm, dựa trên hai nhóm tiêu chí lớn: tiêu chí chung và tiêu chí kết quả thực hiện nhiệm vụ.
Tổng điểm là 100, trong đó tiêu chí chung chiếm 30 điểm và tiêu chí kết quả thực hiện nhiệm vụ chiếm 70 điểm. Nhóm tiêu chí chung tập trung vào những yếu tố nền tảng phản ánh năng lực quản trị và kỷ luật của cơ quan.
Cụ thể gồm: việc xây dựng và thực hiện quy chế làm việc; tinh thần đoàn kết nội bộ; văn hóa công vụ và đạo đức nghề nghiệp; thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, phòng chống tham nhũng; việc thực hiện chuyển đổi số, cải cách hành chính, tinh gọn bộ máy, tinh giản biên chế; nỗ lực khắc phục những hạn chế, yếu kém được chỉ ra ở kỳ đánh giá trước.
Nhóm tiêu chí này cho thấy cơ quan không chỉ được xem xét qua kết quả chuyên môn, mà còn qua năng lực tổ chức, điều hành và môi trường làm việc.
Nhóm tiêu chí kết quả thực hiện nhiệm vụ chiếm tỷ trọng lớn nhất (70 điểm): phản ánh trực tiếp hiệu quả hoạt động của cơ quan.
Việc chấm điểm dựa trên mức độ hoàn thành các mục tiêu, kế hoạch, chương trình công tác đã được giao; chất lượng sản phẩm hành chính đầu ra; tiến độ giải quyết hồ sơ, thủ tục hành chính; tỉ lệ hồ sơ xử lý đúng hạn; mức độ hài lòng của người dân và doanh nghiệp; cùng với kết quả các chỉ số cải cách hành chính (PAR Index), chỉ số năng lực cạnh tranh (PCI), chỉ số chuyển đổi số (DTI), chỉ số hài lòng của người dân (SIPAS)…
Những chỉ tiêu này được lượng hóa cụ thể, có số liệu chứng minh, giúp việc đánh giá mang tính khách quan và thực chứng hơn.
Quy trình đánh giá cơ quan cũng được thiết kế chặt chẽ và công khai. Cơ quan cấp trên trực tiếp chịu trách nhiệm tổ chức đánh giá, bảo đảm tính khách quan, toàn diện, đồng thời tiếp nhận báo cáo tự đánh giá của cơ quan cấp dưới.
Kết quả đánh giá cuối cùng được xếp loại theo bốn mức: Hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, Hoàn thành tốt nhiệm vụ, Hoàn thành nhiệm vụ và Không hoàn thành nhiệm vụ. Trong đó, mức “hoàn thành xuất sắc” bị khống chế tỷ lệ để bảo đảm thực chất, tránh tình trạng đánh giá dàn trải.
Đáng chú ý, dự thảo quy định kết quả đánh giá cơ quan là căn cứ trực tiếp để đánh giá người đứng đầu. Ngược lại, kết quả đánh giá cá nhân người đứng đầu cũng ảnh hưởng đến xếp loại của cơ quan.
Cách tiếp cận hai chiều này nhằm gắn kết trách nhiệm, khuyến khích người lãnh đạo điều hành có hiệu quả, đồng thời bảo đảm sự đồng bộ trong đánh giá giữa tổ chức và cá nhân.
Cơ chế đánh giá cơ quan hành chính nhà nước theo dự thảo Nghị định không chỉ giúp đo lường hiệu quả hoạt động của bộ máy công quyền mà còn góp phần nâng cao trách nhiệm giải trình, siết chặt kỷ cương hành chính.
Cùng với việc đánh giá công chức theo KPI, Bộ Nội vụ kỳ vọng đây sẽ là nền tảng để chuyển từ nền hành chính quản lý sang nền hành chính phục vụ.
Công chức được đánh giá KPI hằng tháng
Dự thảo chia việc đánh giá công chức thành hai nhóm tiêu chí chính.
Nhóm thứ nhất là tiêu chí chung, chiếm 30% tổng điểm, phản ánh phẩm chất, thái độ và hành vi công vụ của mỗi cá nhân.
Nội dung đánh giá gồm phẩm chất chính trị, đạo đức, văn hóa công vụ; ý thức kỷ luật, tinh thần trách nhiệm; thái độ phục vụ Nhân dân và tinh thần hợp tác trong công việc.
Ngoài ra, tiêu chí này còn xem xét khả năng đổi mới, học hỏi, cũng như việc chấp hành quy định về kê khai tài sản, báo cáo, văn hóa giao tiếp và ứng xử trong cơ quan.
Nhóm thứ hai là tiêu chí kết quả thực hiện nhiệm vụ, chiếm 70% tổng điểm, được đo lường theo hệ thống chỉ số KPI.
Mỗi công chức sẽ được giao danh mục nhiệm vụ cụ thể gắn với “sản phẩm hoặc công việc chuẩn” tương ứng với vị trí việc làm. Việc chấm điểm dựa trên khối lượng, tiến độ, chất lượng công việc và khả năng hoàn thành các nhiệm vụ phát sinh đột xuất.
Cách tiếp cận này giúp phản ánh chính xác hơn hiệu suất thực tế, mức độ chủ động, sáng tạo và năng lực xử lý tình huống của công chức.
Điểm tổng hợp được tính theo công thức:
Điểm đánh giá tháng = (Tiêu chí chung × 0,3) + (KPI × 0,7).
Cuối năm, trên cơ sở tổng hợp kết quả của 12 tháng, công chức sẽ được xếp loại theo bốn mức: Hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, Hoàn thành tốt nhiệm vụ, Hoàn thành nhiệm vụ và Không hoàn thành nhiệm vụ.
Tỷ lệ công chức đạt mức “hoàn thành xuất sắc” không vượt quá 20% tổng số trong mỗi cơ quan.
Quy trình đánh giá được quy định rõ ràng theo các bước: công chức tự đánh giá kết quả tháng theo mẫu; người đứng đầu trực tiếp xác nhận, bổ sung nhận xét; bộ phận tổ chức – cán bộ tổng hợp dữ liệu và báo cáo cơ quan quản lý cấp trên.
Kết quả đánh giá sẽ là căn cứ quan trọng để xem xét khen thưởng, bổ nhiệm, quy hoạch, hoặc xử lý trách nhiệm.
Đức Thuận
Nguồn TBNH : https://thoibaonganhang.vn/cham-kpi-ty-le-cong-chuc-dat-muc-hoan-thanh-xuat-sac-khong-vuot-qua-20-172091.html