Trong đó, việc đào tạo gần 4.000 nhân lực chất lượng cao trở thành khâu then chốt, được Chính phủ giao nhiệm vụ cho 10 trường đại học, cao đẳng và Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam với kỳ vọng hình thành đội ngũ đủ sức làm chủ công nghệ trong tương lai.
Nghiên cứu công nghệ kỹ thuật hạt nhân tại Trường Đại học Khoa học tự nhiên (Đại học Quốc gia Hà Nội).
Đặt nền móng bằng nguồn nhân lực
Điện hạt nhân được xác định là giải pháp chiến lược để bảo đảm an ninh năng lượng, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội và thực hiện cam kết phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050. Trong đó, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, có khả năng tiếp thu, chuyển giao và làm chủ công nghệ là yếu tố quyết định.
Theo Đề án “Đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực phục vụ phát triển điện hạt nhân đến năm 2035”, từ nay đến năm 2030, hai nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận 1 và 2 cần khoảng 3.900 nhân lực, trong đó có 2.070 người trình độ đại học và 1.830 người trình độ cao đẳng. Ngoài ra, sẽ có 670 người được đào tạo mới ở nước ngoài, 700 lượt cán bộ, công chức, viên chức được bồi dưỡng kỹ năng chuyên sâu, 120 giảng viên được đào tạo mới, cùng hàng trăm người được cập nhật kiến thức.
Nguồn nhân lực khoa học và công nghệ hạt nhân của Việt Nam hiện còn thiếu cả về số lượng và chất lượng, nhất là những chuyên gia đầu ngành. Trong 11 đơn vị được giao nhiệm vụ đào tạo, chỉ 5 cơ sở có kinh nghiệm chuyên sâu về kỹ thuật hạt nhân: Đại học Bách khoa Hà Nội, Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, Đại học Quốc gia Hà Nội, Trường Đại học Đà Lạt và Trường Đại học Điện lực.
PGS.TS Nguyễn Văn Thái, Phó Trưởng khoa Vật lý Kỹ thuật, Đại học Bách khoa Hà Nội cho biết, nhà trường đã đào tạo kỹ sư kỹ thuật hạt nhân từ năm 1970 và vẫn duy trì chương trình này dù dự án Ninh Thuận bị dừng năm 2016. Giờ đây, khi dự án được tái triển khai, nhà trường sẵn sàng đào tạo theo đơn đặt hàng.
Tiến sĩ Nguyễn Thế Nghĩa, Trưởng bộ môn Vật lý hạt nhân, Trường Đại học Khoa học tự nhiên (Đại học Quốc gia Hà Nội) cho biết, trường có truyền thống đào tạo vật lý hạt nhân từ năm 1956, sinh viên tốt nghiệp ngành Công nghệ và Kỹ thuật hạt nhân không chỉ có cơ hội việc làm trong các nhà máy điện nguyên tử mà còn có thể làm việc trong lò phản ứng hạt nhân nghiên cứu, các trung tâm ứng dụng hạt nhân trong công nghiệp, các trung tâm phân tích, chiếu xạ, trong y học hạt nhân và nhiều lĩnh vực khác của đời sống xã hội…
Trường Đại học Đà Lạt, một trong 5 cơ sở đầu tiên được giao nhiệm vụ đào tạo nhân lực cho điện hạt nhân từ năm 2010, hiện vẫn duy trì đào tạo ngành kỹ thuật hạt nhân với 3 chuyên ngành: Ứng dụng trong nông nghiệp - vật liệu - môi trường; tính toán - mô phỏng lò phản ứng; an toàn hạt nhân.
Hồi sinh ngành học “kén người” và những điều kiện cần
Điện hạt nhân là lĩnh vực kỹ thuật phức tạp, đòi hỏi nhân lực chất lượng cao từ thiết kế, xây dựng đến vận hành và quản lý an toàn. Tuy nhiên, công tác tuyển sinh và đào tạo hiện còn nhiều khó khăn.
Theo Phó Giám đốc Đại học Bách khoa Hà Nội Nguyễn Phong Điền, khó khăn lớn nhất hiện nay là sự thay đổi vượt bậc của công nghệ năng lượng hạt nhân. Việc tạm dừng đào tạo chuyên sâu về năng lượng hạt nhân trong thời gian dài khiến công tác cập nhật kiến thức, từ đội ngũ giảng viên đến hệ thống phòng thí nghiệm và thực hành cho sinh viên, trở thành thách thức lớn.
Theo nhiều chuyên gia, để bảo đảm chất lượng đào tạo, Nhà nước cần đầu tư mạnh cho cơ sở vật chất hiện đại đạt chuẩn quốc tế, như: Phòng thực hành mô phỏng, thiết bị thí nghiệm chuyên sâu... Cùng với đó, tăng cường đào tạo giảng viên chuyên sâu ở nước ngoài và xây dựng trung tâm mô phỏng điện hạt nhân quốc gia để sinh viên được tiếp cận hệ thống điều khiển, tình huống vận hành, xử lý sự cố như trong thực tế.
PGS.TS Nguyễn Hữu Hiếu, Hiệu trưởng Trường Đại học Bách khoa (Đại học Đà Nẵng) nêu quan điểm: “Đào tạo ngành này nếu chỉ tập trung vào lý thuyết mà không gắn với thực hành, thực nghiệm, sẽ lãng phí thời gian và nguồn lực. Ngoài ra, cần truyền thông đúng đắn để người học hiểu rõ về mức độ an toàn của công nghệ điện hạt nhân hiện đại”.
PGS.TS Đinh Văn Châu, Hiệu trưởng Trường Đại học Điện lực đề xuất mở rộng hợp tác quốc tế, tạo điều kiện để giảng viên đi đào tạo, nghiên cứu ở nước ngoài và mời chuyên gia quốc tế đến giảng dạy trong nước.
Theo thống kê, giai đoạn 2012-2015, khi Việt Nam triển khai chương trình điện hạt nhân lần đầu, đã có hơn 400 sinh viên và cán bộ được cử đi đào tạo tại Nga, Nhật Bản và Pháp. Hiện, nhiều người trong số đó vẫn đang chờ cơ hội quay trở lại với ngành nghề mà họ đã dành nhiều năm học tập.
Rõ ràng, để thực sự “hồi sinh” ngành điện hạt nhân, bài toán về nhân lực là yếu tố quyết định. Việc giao nhiệm vụ cho 11 đơn vị đào tạo gần 4.000 nhân lực từ nay đến năm 2030 là một bước đi chiến lược, đặt nền móng cho hành trình dài hơi. Nếu làm tốt công tác đào tạo (đúng ngành, trúng nhu cầu, bảo đảm chất lượng), Việt Nam hoàn toàn có thể vươn lên làm chủ công nghệ hạt nhân.
Thu Hằng