Chảy mãi mạch ngầm chữ nghĩa làng Nành

Chảy mãi mạch ngầm chữ nghĩa làng Nành
16 giờ trướcBài gốc
Cổng làng Nành.
Không chỉ nổi danh là làng buôn vải, làng làm thuốc, đất hậu cung với bao phi tần mỹ nữ, làng Nành còn được biết tới là đất học - đất khoa bảng với bốn vị đại khoa, nhiều trung khoa và danh y nức tiếng.
Làng Nành (làng Phù Ninh) nay thuộc xã Ninh Hiệp (Gia Lâm, Hà Nội). Theo địa chí, đầu thời Nguyễn, làng Nành thuộc tổng Hạ Dương, huyện Đông Ngàn, phủ Từ Sơn, trấn Kinh Bắc. Làng Nành vốn là một làng lớn, gồm sáu giáp nhưng đến cuối thế kỷ 16, thì diễn ra việc tách nhập.
Đất làng sinh mỹ nữ
Theo nghiên cứu của PGS.TS Bùi Xuân Đính - Viện Dân tộc học (nay là Viện Dân tộc học và Tôn giáo học), sau Cách mạng tháng Tám 1945, các xã vốn từ các giáp của làng Nành hợp nhất với nhiều xã khác. Đến giữa 1956 tách ra thành xã Ninh Hiệp thuộc huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Từ tháng 5/1961 xã Ninh Hiệp chuyển về huyện Gia Lâm (Hà Nội).
Làng Nành có vị trí rất tiện lợi cả đường thủy và đường bộ, nên có chợ Nành vốn ở bãi Dĩ gần sông Thiên Đức chuyển về giữa làng vào những năm giữa thế kỷ 18, một tháng 6 phiên vào các ngày 3 và 8, lưu thông hàng hóa từ miền núi xuống miền xuôi, từ Bắc vào Nam, tạo cho làng có một nền kinh tế khá phát đạt, để từ đó nổi tiếng nhiều mặt, trong đó có truyền thống hiếu học và khoa bảng.
Bản rập văn bia Tiến sĩ khoa thi năm Mậu Thìn (1691) ghi danh Tiến sĩ Đào Quốc Hiển - một trong bốn vị đại khoa người làng Nành.
Quanh làng Nành bây giờ, biết bao những di tích còn giữ được minh chứng cho vùng đất phát phi tần, mỹ nữ tiến cung. Vẫn còn đây những phần mộ của hai bà Chiêu nghi. Trong đó bà Chiêu nghi Nguyễn Thị Ngọc Huyền - vợ vua Lê Hiển Tông còn là người hiến đất, lập trường Hán học tại làng, và mộ bà nay vẫn ở làng Nành, bên cạnh là mộ tượng trưng của con gái bà, công chúa Ngọc Hân nổi tiếng trong sử Việt.
Các nguồn sử liệu đều ghi, Ngọc Hân tài sắc hơn người, kiều diễm, đoan trang, được mệnh danh là “Chúa Tiên” nên khi Nguyễn Huệ đem quân “phù Lê diệt Trịnh” đã chọn Ngọc Hân làm ý trung nhân.
Sau khi nhà Lê đổ, Nguyễn Huệ lên ngôi vua, Ngọc Hân được phong là Bắc cung Hoàng hậu. Bà là người thông minh, học cao, biết rộng, biết người, đoán xét được mọi việc nên đã giữ được vai trò quan trọng trong sự nghiệp lớn của vua Quang Trung. Chỉ mới 6 năm chung sống, hoàng đế Quang Trung đã đột ngột ra đi để lại Bắc cung Hoàng hậu còn trẻ (tuổi 22) và hai con nhỏ thơ dại.
Nhà Nguyễn lên ngôi với sự thù hận sâu sắc hoàng tộc trước. Các con của Ngọc Hân phải đổi sang họ Trần để tránh sự truy đuổi của Gia Long, nhưng chẳng tồn tại được bao lâu.
Thương con gái, cùng các cháu ngoại chết yểu nơi xa, năm 1804 bà Ngọc Huyền khi ấy đang sống ở làng Nành thuê người vào Huế, đem hài cốt của ba mẹ con Ngọc Hân về làng. Ba bộ hài cốt được đưa về bến Ái Mộ, và được an táng tại bãi Cây Đại hay bãi Đầu Voi ở đầu làng Nành. Năm 1823, bà Huyền mất, thọ 70 tuổi, dinh Thiết Lâm thờ bà và mẹ con Ngọc Hân.
Theo tộc phả họ Nguyễn Đình và truyền thuyết địa phương, vào khoảng thời gian từ đời Minh Mạng sang đời Thiệu Trị (1840) có người trong làng đã tố cáo việc thờ cúng này với chính quyền.
Vua Thiệu Trị ban sắc, bắt phá hủy đền thờ ở dinh Thiết Lâm. Mộ ba mẹ con Lê Ngọc Hân bị quật đào, hài cốt đổ xuống sông Hồng - nơi sau này dân lập đền Ghềnh thờ bà; chánh tổng bị lột da nhồi trấu, tri phủ bị cách chức.
Đất văn, đất võ, đất Phật
Làng Nành đất thiêng, ngoài nổi tiếng là nơi sinh thành của nhiều cung tần mỹ nữ, còn được biết tới là đất học. Dưới thời phong kiến, làng Nành có bốn vị đỗ đại khoa. Đó là Nguyễn Khắc Trung đỗ Hoàng giáp năm 1523, làm quan đến chức Hiến sát sứ; Lê Dao đỗ Hoàng giáp năm 1559, làm quan đến chức Cấp sự trung;
Đào Quốc Hiển đỗ Tiến sĩ năm 1691, từng đi sứ sang nhà Thanh năm 1709, làm quan đến chức Hình bộ Tả thị lang, sau khi mất được tặng tước bá; Nguyễn Bá Tông đỗ Tiến sĩ năm 1706, làm Phủ doãn Phụng Thiên, được cử đi sứ nhà Thanh và mất trên đường đi.
Từ khoảng những năm 1770 trở đi, làng Nành nói riêng và huyện Đông Ngàn nói chung có nhiều khởi sắc mạnh mẽ về giáo dục. Một phần được ghi nhận bởi công sức của bà Chiêu nghi Nguyễn Thị Ngọc Huyền trong việc cung tiến tiền bạc xây dựng và mở mang các trường học.
Nguồn đăng khoa lục cho biết, làng Nành ngoài 4 vị Tiến sĩ, còn nhiều người thi đỗ Cử nhân, Tú tài, nhiều người làm nghề dạy học. Bởi vậy, ở làng Nành đã hình thành những nếp sống văn hóa, lễ hội và cả những vật thể nay còn hiển hiện trong các di tích.
Đáng chú ý nhất chính là cổng làng Nành - một trong 13 cổng làng cổ nhất Kinh Bắc. Cổng làng theo thế tam môn, quy mô bề thế gồm một cửa chính và hai cửa nhỏ bên tả - hữu. Các quan tân khoa thời xưa, khi đỗ đạt vinh quy, áo gấm về làng, tới cổng làng đều phải kính cẩn “hạ mã”.
Theo phong tục khi trong làng có đám tang, trên đường đưa linh cữu người quá cố ra mộ phải qua cổng làng. Lúc này linh cữu phải khiêng hạ thấp xuống để người chết có lời cáo biệt. Ra đến mặt trước cổng, linh cữu phải hơi quay lại phía sau để người đã khuất được nhìn cổng làng lần cuối.
Không chỉ là đất văn học, làng Nành còn là đất võ - tiêu biểu là họ Nguyễn, riêng vào thời Lê đã có ba vị Quận công, 8 vị được phong tước Hầu. Trong đó nổi tiếng là ông Nguyễn Bá Chiêm xuất thân từ cảnh nghèo, sau gia nhập lính và trở thành võ quan, có công đánh giặc Bầu, một ngày được phong ba cấp. Khi dẹp yên giặc, ông không nhận bổng lộc mà chỉ xin vua cho đem doanh trại về để xây đình làng. Vua chấp thuận và ông đã giúp cả xã xây bốn ngôi đình.
Theo nghiên cứu của PGS.TS Bùi Xuân Đính, làng Nành xưa có tới ba ngôi đình là: đình Cả (đình đàn anh) dựng năm 1659 là ngôi đình lớn nhưng nay không còn; đình Hạ dựng sau đình Cả ít năm, còn bảo tồn được nguyên dạng đến ngày nay; đình Ninh Giang dựng năm 1665, nay vẫn còn. Điều đáng lưu ý là cả ba ngôi đình này đều do Vịnh Quận công - người làng bỏ một khoản tiền lớn xây dựng.
Làng còn có ba ngôi chùa, gồm chùa Cả (chùa Nành), do người trong hoàng tộc nhà Mạc dựng vào năm 1583. Chùa Khánh Ninh dựng năm 1664, chùa Đại Bi dựng năm 1673, cả hai ngôi chùa này đều do các tôn thất, hoàng phi nhà Lê và chúa Trịnh góp công xây dựng.
Ngoài ra còn có Thạch sàng, là một sập bằng đá đặt trong một ngôi nhà tám mái, dựng vào năm 1733. Tương truyền đây là nơi ngự của Khâu Đà La, nên lễ hội chùa Cả hàng năm thường rước kiệu từ đây về chùa làm lễ.
Sách “Bắc Ninh phong thổ chí” cho biết, khoảng thế kỷ thứ II sau Công nguyên, thiền sư Khâu Đà La từ Ấn Độ sang Việt Nam, đến Ninh Trang (Ninh Hiệp) ông dừng lại. Ban ngày cầm lá cờ Đại thắng đi truyền đạo, tối về nằm trên phiến đá dưới gốc đa đầu làng.
Tương truyền nơi ông nằm là đầu con Phượng hoàng. Sau Khâu Đà La được Tu Định đón sang Man Xá (Thuận Thành) rồi có chuyện Man Nương - Tứ Pháp. Sau khi ông đi khỏi, dân làng liền dựng phiến đá đó lên làm bệ thờ và gọi tên là Thạch sàng.
Thạch sàng là nơi hàng xã làm lễ Kỳ Yên (lễ cầu an hay còn gọi là cầu mát) vào ngày 1/4 âm lịch hàng năm. Thạch sàng còn là nơi mở hội Bà Bạng ngày 10/4, cũng là nơi hàng năm dân làng rước đức Phật ra cầu mưa, gọi là lễ đảo vũ, đặc biệt là nơi mở hội Đại nâng Phan.
Làng Nành còn bảo lưu được nhiều văn bia cổ.
Thổi bùng ngọn lửa chữ nghĩa
Không chỉ là đất văn, đất võ, làng Nành còn là nơi làm thuốc với nhiều quan Ngự y nức tiếng. Theo các cao niên, truyền thống làm thuốc của người làng Nành từng rất thịnh vượng. Tương truyền, vào thời Lý làng lúc đó có tên gọi Phù Ninh. Bà Lý Nương trong một lần ghé qua đây, thấy người dân hiền lành hiếu khách, nên cảm mến.
Nhìn cảnh dân đau ốm, bệnh tật, bà bèn trổ tài dùng lá cây để chữa bệnh giúp dân. Để đáp lại tấm lòng tha thiết của người dân, bà đã ở lại để dạy cách trồng và chế biến thuốc chữa bệnh. Sau khi bà mất, người làng dựng am thờ, vua Lý phong bà danh hiệu “Lý nhũ thái lão - Dược tiên thần linh”.
Nghề thuốc làng Nành cứ thế truyền thụ qua các đời. Chỉ tính riêng triều vua Tự Đức, trong khoảng gần 30 năm - nơi đây đã có 2 vị quan Ngự y được vua tín nhiệm: Chánh Viện Thái y Nguyễn Văn Toản và phó Ngự y Nguyễn Khắc Hoạt. Cho đến bây giờ, người làng Nành vẫn thường đọc cho nhau nghe câu vè: “Ngự y giữa chốn triều đường/ Một làng chánh phó dễ thường mấy nơi”.
Theo gia phả dòng họ Nguyễn Khắc, quan phó Ngự y Nguyễn Khắc Hoạt có tên húy là Chấp, thường gọi là Bá Hoạt. Ông sinh năm Mậu Tuất (1838), mất ngày 5/10 năm Quý Mão (1903). Thân phụ ông là một thầy thuốc giỏi nhưng mất sớm, để lại 3 con nhỏ.
Để nuôi được các con, mẹ ông đã phải lặn lội ngược xuôi khắp vùng Kinh Bắc chạy chợ, buôn bán. Năm 20 tuổi, Nguyễn Khắc Hoạt thông thạo y lý, được nhiều người dân trong vùng tìm đến chữa bệnh. Với dân nghèo, ông chỉ chữa bệnh làm phúc không lấy tiền.
'Cụ đồ' Hoàng Đình Đá - người từng góp công lớn trong việc dạy Hán Nôm tại làng Nành.
Lúc ấy, vua Tự Đức đã lấy rất nhiều vợ mà vẫn không có con. Vua cho mở các khoa thi về y học, đến các địa phương tìm thầy thuốc giỏi. Đến khoa thi năm Kỷ Tỵ (1869) ông Nguyễn Khắc Hoạt tham gia thi và đỗ xuất sắc, được bổ nhiệm vào Viện Thái y, lĩnh chức phó Ngự y.
Vua Tự Đức đã ban thưởng cho ông đồng tiền bằng bạc có dây đeo. Hiện nay, đồng bạc này vẫn được lưu giữ cẩn thận tại nhà thờ họ Nguyễn. Đồng tiền bạc có niên đại thời Tự Đức, gọi là “Tự Đức thông bảo”.
Sau khi chữa khỏi bệnh cho vợ vua, phó Ngự y Nguyễn Khắc Hoạt được cử tham gia Đoàn sứ bộ sang nhà Thanh (Trung Quốc). Hành trình đi sứ kéo dài từ tháng 6/1876 đến hết năm 1878, và “Yên sứ trình đồ tập” của ông ra đời trong thời gian này.
Đây là một tập tư liệu đồ họa, được ký họa và viết công phu, chi tiết thể hiện toàn bộ cuộc hành trình hàng nghìn dặm của sứ đoàn, qua rất nhiều địa danh khác nhau, những nơi sứ đoàn đã đi qua hoặc nghỉ lại.
Thế nhưng trong thời hiện đại, những thịnh vượng khoa bảng, y dược của làng Nành cứ dần rơi vào quên lãng. Nhiều người không còn rõ làng mình có mấy vị đại khoa, bao nhiêu người đỗ đạt, bao nhiêu thầy đồ, bao nhiêu lương y? Bức cổng làng cũng dần phai bạc theo thời gian, không ai còn cúi lạy chào làng mỗi khi đi xa.
Đền Điếm Kiều - nơi các cao niên làng Nành mở lớp dạy Hán Nôm.
Tuy vậy, vẫn có những người “ăn đời ở kiếp” với mỹ tục của làng, làm sống dậy khoa danh, vực dậy nghề làm thuốc. Khoảng những năm 2011, tác giả có cơ hội gặp “cụ đồ” Hoàng Đình Đá - người ra sức dạy Hán Nôm miễn phí tại đền Điếm Kiều.
Cụ Đá nói rằng, cụ chỉ là đàn em của “tứ túc nho”: Quýnh, Hải, Thực, Kim - bốn “cụ đồ” nổi tiếng ở Ninh Hiệp là những người đầu tiên khơi dậy truyền thống viết thư pháp ở Quốc Tử Giám.
Mạch ngầm chữ nghĩa làng khoa bảng tưởng đã tắt lại được các cụ thổi bùng bằng cách truyền dạy Hán Nôm. Ngoài con em trong làng - học để biết đọc các bản ghi chép cách làm thuốc cổ xưa, rất nhiều học trò nơi khác kéo về làng Nành thụ giáo. Nay nhiều người đã trở thành các nhà thư pháp, góp mặt vào các cuộc gìn giữ, chấn hưng Hán Nôm.
Làng Nành từng bảo lưu được nhiều cuốn sách quý, là các bí quyết “chém cột nhà thề bất khả truyền” - ghi chép về cách sao tẩm, bắt mạch, kê đơn… của nhiều đời làm nghề thuốc. Tuy nhiên, từng có thời gian các cuốn sách bị quên lãng vì không có người biết chữ Hán để “giải mã’. Người làng còn câu nói của nhà thư pháp Nguyễn Khắc Quýnh rằng: “Người làng ta đang rũ bỏ, quay lưng lại với nghề thuốc. Phải ráng mà cứu lấy nghề kẻo tội với tiền nhân”. Từ đó, các cụ trong làng đồng lòng đứng lên thành lập Hội Đông y Ninh Hiệp, đi thu gom những cuốn sách cổ và mở lớp dạy chữ Hán miễn phí cho dân làng.
Trần Siêu
Nguồn GD&TĐ : https://giaoducthoidai.vn/chay-mai-mach-ngam-chu-nghia-lang-nanh-post735478.html