Thúc đẩy quyết toán, nộp tiền thu từ cổ phần hóa về ngân sách nhà nước
Phó Thủ tướng Hồ Đức Phớc vừa ký Chỉ thị số 16/CT-TTg ngày 5/6/2025 của Thủ tướng Chính phủ yêu cầu thúc đẩy công tác quyết toán cổ phần hóa, nộp tiền thu từ cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước về Quỹ Hỗ trợ sắp xếp và Phát triển doanh nghiệp (nay là ngân sách nhà nước).
Chỉ thị nêu rõ, trong những năm qua, công tác cơ cấu lại, sắp xếp, đổi mới, cổ phần hóa (CPH) doanh nghiệp nhà nước (DNNN), thoái vốn đã đạt được nhiều kết quả quan trọng. Cơ chế, chính sách về đổi mới tổ chức, quản lý, sắp xếp, CPH, thoái vốn nhà nước đã được ban hành đầy đủ, tiếp tục được nghiên cứu, hoàn thiện, đảm bảo chặt chẽ hơn, công khai minh bạch, tối đa hóa lợi ích của Nhà nước, tháo gỡ khó khăn vướng mắc nhằm đẩy nhanh tiến độ CPH, thoái vốn và hạn chế thất thoát vốn, tài sản nhà nước trong quá trình CPH, thoái vốn, cơ cấu lại DNNN và doanh nghiệp có vốn nhà nước.
Tính đến thời điểm ngày 31 tháng 12 năm 2024, đã có 118 doanh nghiệp được cấp có thẩm quyền phê duyệt Đề án cơ cấu lại doanh nghiệp theo Quyết định số 360/QĐ-TTg ngày 17 tháng 3 năm 2022 của Thủ tướng Chính phủ. Giai đoạn 2021 - 2024 thoái vốn nhà nước tại 15 doanh nghiệp với giá trị 405,2 tỷ đồng, thu về 656,9 tỷ đồng; số thu thực tế từ bán vốn nhà nước giai đoạn 2021 - 2023 là 14.617 tỷ đồng; giá trị dự kiến thu từ bán vốn nhà nước giai đoạn 2024 - 2025 là 47.958,36 tỷ đồng.
Bên cạnh các kết quả đạt được, công tác cơ cấu lại, sắp xếp, đổi mới, CPH DNNN, thoái vốn còn một số tồn tại, hạn chế như: một số bộ, ngành, địa phương chưa phê duyệt phương án cơ cấu lại các DNNN, chưa hoàn thành kế hoạch CPH, thoái vốn theo đúng kế hoạch đã được phê duyệt; nhiều doanh nghiệp chưa được cơ quan đại diện chủ sở hữu phê duyệt quyết toán CPH...
Trong năm 2025, hoàn thành các nhiệm vụ liên quan đến quyết toán cổ phần hóa
Để thúc đẩy công tác quyết toán CPH, nộp tiền thu từ CPH, thoái vốn nhà nước về Quỹ Hỗ trợ sắp xếp và Phát triển doanh nghiệp (nay là ngân sách nhà nước) theo quy định, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn nhà nước (SCIC) khẩn trương chỉ đạo các doanh nghiệp thuộc phạm vi quản lý tập trung đẩy nhanh công tác quyết toán CPH đối với các đơn vị chưa hoàn thành quyết toán phần vốn nhà nước tại thời điểm chính thức chuyển sang công ty cổ phần; làm rõ tình hình triển khai thực hiện quyết toán vốn nhà nước tại thời điểm chính thức chuyển thành công ty cổ phần, tình hình thu nộp, xác định các khoản phải thu, các khoản đã nộp về CPH (bao gồm tiền thu từ bán cổ phần lần đầu, phát hành cổ phần tăng thêm, khoản chênh lệch vốn nhà nước tại thời điểm chính thức chuyển thành công ty cổ phần với giá trị thực tế phần vốn nhà nước tại thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp).
Kịp thời hướng dẫn các doanh nghiệp CPH xử lý dứt điểm các nội dung còn vướng mắc, tồn tại trong quá trình quyết toán CPH theo quy định của pháp luật. Những vấn đề vướng mắc vượt thẩm quyền, cần khẩn trương báo cáo cấp có thẩm quyền; đồng thời gửi Bộ Tài chính để tổng hợp, tham mưu Thủ tướng Chính phủ, Chính phủ xem xét, chỉ đạo.
Khẩn trương thực hiện các nhiệm vụ liên quan đến công tác quyết toán CPH, hoàn thành trong năm 2025 và chịu trách nhiệm trước Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ về việc chưa hoàn thành công tác quyết toán, bàn giao sang công ty cổ phần đối với các doanh nghiệp thuộc phạm vi quản lý theo quy định. Trường hợp không hoàn thành, báo cáo rõ lý do và đề xuất thời hạn, phương án xử lý, gửi Bộ Tài chính để tổng hợp, báo cáo Thủ tướng Chính phủ.
Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn nhà nước có trách nhiệm hoàn thành các nhiệm vụ sau trong năm 2025: Phối hợp chặt chẽ với các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương để rà soát các doanh nghiệp đã bàn giao quyền đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước về SCIC và giải quyết triệt để tồn tại, hạn chế trong công tác quyết toán CPH đối với các doanh nghiệp đã bàn giao quyền đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước về SCIC. Thực hiện đầy đủ trách nhiệm theo quy định tại Khoản 4 Điều 9 Thông tư số 57/2022/TT-BTC.
Thủ tướng Chính phủ yêu cầu UBND cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương khẩn trương quan tâm, chỉ đạo các cơ quan tại địa phương có ý kiến cụ thể về phương án sử dụng đất của doanh nghiệp CPH theo thẩm quyền để bảo đảm công tác quyết toán CPH theo đúng quy định. Chịu trách nhiệm có ý kiến về diện tích đất doanh nghiệp tiếp tục sử dụng khi CPH và giá đất cụ thể đối với diện tích đất giao theo quy định của pháp luật về đất đai.
Các doanh nghiệp CPH yêu cầu người đại diện phần vốn nhà nước tại các doanh nghiệp CPH báo cáo các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, SCIC những vấn đề phát sinh, tồn tại, khó khăn, vướng mắc trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp liên quan đến quyết toán CPH để xử lý dứt điểm; trường hợp vượt thẩm quyền, các cơ quan, SCIC báo cáo Bộ Tài chính (trong đó chỉ rõ những nội dung thuộc thẩm quyền của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ) để tổng hợp, tham mưu Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ phương án xử lý.
Các doanh nghiệp CPH yêu cầu người đại diện phần vốn nhà nước tại các doanh nghiệp CPH đề nghị các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, SCIC phê duyệt giá trị phần vốn nhà nước tại thời điểm chính thức chuyển thành công ty cổ phần và quyết toán tiền thu về CPH, quyết toán kinh phí hỗ trợ cho người lao động dôi dư, chi phí CPH; xác định số phải nộp bổ sung đối với khoản chênh lệch vốn nhà nước tại thời điểm chính thức chuyển thành công ty cổ phần với giá trị phần vốn nhà nước tại thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp (nếu có) theo quy định.
Bộ Tài chính có trách nhiệm thường xuyên rà soát cơ chế, chính sách, văn bản quy phạm pháp luật để sửa đổi, bổ sung kịp thời nếu cần thiết; tổng hợp vướng mắc của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, SCIC và tham mưu, đề xuất Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ phương án xử lý.
Quy định về đổi số thuê bao viễn thông
Chính phủ vừa ban hành Nghị định số 115/2025/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều của Luật Viễn thông về quản lý kho số viễn thông, tài nguyên Internet; việc bồi thường khi nhà nước thu hồi mã, số viễn thông, tài nguyên Internet; đấu giá quyền sử dụng mã, số viễn thông, tên miền quốc gia Việt Nam ".vn".
Trong đó, Nghị định nêu rõ quy định về đổi số thuê bao viễn thông. Theo đó, doanh nghiệp viễn thông thực hiện việc đổi số thuê bao viễn thông trong các trường hợp sau:
Tăng dung lượng số thuê bao viễn thông nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển thuê bao.
Bảo đảm đáp ứng yêu cầu quản lý, khai thác mạng lưới và cung cấp dịch vụ viễn thông hiệu quả.
Thực hiện việc điều chỉnh, bổ sung, sửa đổi quy hoạch kho số viễn thông nhằm đáp ứng yêu cầu thay đổi về công nghệ và chính sách phát triển viễn thông.
Doanh nghiệp viễn thông khi đổi số thuê bao viễn thông có trách nhiệm:
Xây dựng và triển khai kế hoạch đổi số thuê bao viễn thông của doanh nghiệp phù hợp với quy hoạch kho số viễn thông hoặc kế hoạch đổi số thuê bao đã được Bộ Khoa học và Công nghệ ban hành.
Thông báo việc đổi số thuê bao viễn thông trên các phương tiện thông tin đại chúng trong thời gian ít nhất 60 ngày trước khi tiến hành đổi số thuê bao viễn thông.
Hướng dẫn người sử dụng dịch vụ viễn thông cách thức quay số sau khi tiến hành đổi số thuê bao viễn thông; phối hợp với các doanh nghiệp viễn thông khác thực hiện việc đổi số thuê bao viễn thông.
Triển khai các biện pháp kỹ thuật nhằm giảm thiểu tối đa việc mất liên lạc (nếu có) trước, trong và sau quá trình đổi số thuê bao viễn thông.
Doanh nghiệp viễn thông không phải bồi thường thiệt hại gián tiếp hoặc nguồn lợi không thu được do việc đổi số thuê bao viễn thông.
Thủ tục đổi số thuê bao viễn thông
Theo Nghị định quy định, đổi số thuê bao viễn thông đảm bảo phù hợp với quy hoạch kho số viễn thông, bao gồm việc đổi số thuê bao viễn thông nhưng không thay đổi độ dài, cấu trúc số thuê bao viễn thông và đổi số thuê bao viễn thông có thay đổi độ dài, cấu trúc số thuê bao viễn thông.
Hồ sơ đề nghị đổi số thuê bao viễn thông nhưng không thay đổi độ dài, cấu trúc số thuê bao viễn thông bao gồm: Đơn đề nghị đổi số thuê bao viễn thông; Bản sao giấy phép kinh doanh dịch vụ viễn thông; giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp của doanh nghiệp bao gồm bản sao được cấp từ sổ gốc hoặc bản được in từ các văn bản điện tử từ cơ sở dữ liệu quốc gia đối với trường hợp thông tin gốc được lưu trữ trên cơ sở dữ liệu quốc gia; Kế hoạch đổi số thuê bao viễn thông theo Mẫu số 12 tại Phụ lục ban hành kèm theo Nghị định này.
Trình tự đổi số thuê bao viễn thông
Doanh nghiệp nộp hồ sơ đề nghị đổi số thuê bao viễn thông đến Bộ Khoa học và Công nghệ (Cục Viễn thông) theo hình thức trực tuyến tại cổng dịch vụ công quốc gia (https://dichvucong.gov.vn) hoặc cổng dịch vụ công trực tuyến của Bộ Khoa học và Công nghệ hoặc qua dịch vụ bưu chính hoặc nộp trực tiếp tại Bộ Khoa học và Công nghệ (Cục Viễn thông).
Trong thời hạn 20 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ hợp lệ, Bộ Khoa học và Công nghệ (Cục Viễn thông) thẩm định, ban hành quyết định chấp thuận đổi số thuê bao viễn thông. Trường hợp từ chối việc đổi số thuê bao viễn thông, trong thời hạn 20 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ hợp lệ, Bộ Khoa học và Công nghệ (Cục Viễn thông) có văn bản trả lời, nêu rõ lý do từ chối.
Kết quả xử lý hồ sơ được trả qua cổng dịch vụ công quốc gia, cổng dịch vụ công trực tuyến của Bộ Khoa học và Công nghệ, dịch vụ bưu chính hoặc trả trực tiếp tại Bộ Khoa học và Công nghệ (Cục Viễn thông). Doanh nghiệp viễn thông báo cáo kết quả việc đổi số thuê bao viễn thông với Bộ Khoa học và Công nghệ (Cục Viễn thông).
Bộ Khoa học và Công nghệ xây dựng kế hoạch đổi số thuê bao viễn thông đối với trường hợp đổi số thuê bao viễn thông có thay đổi độ dài, cấu trúc số thuê bao viễn thông, chỉ đạo các doanh nghiệp viễn thông thực hiện kế hoạch đổi số thuê bao viễn thông.
Thuê và cho thuê số thuê bao viễn thông
Doanh nghiệp viễn thông được sử dụng số thuê bao viễn thông đã được phân bổ để cho doanh nghiệp viễn thông khác có giấy phép kinh doanh dịch vụ viễn thông cung cấp cùng loại hình dịch vụ viễn thông thuê lại để kinh doanh. Chỉ được thuê, cho thuê số thuê bao viễn thông gắn với việc bán lại dịch vụ viễn thông.
Thời hạn thuê, cho thuê số thuê bao viễn thông không được vượt quá thời hạn tương ứng các giấy phép kinh doanh dịch vụ viễn thông của doanh nghiệp thuê, doanh nghiệp cho thuê số thuê bao viễn thông.
Các doanh nghiệp viễn thông tham gia thuê và cho thuê số thuê bao viễn thông có trách nhiệm thực hiện đúng quy hoạch kho số viễn thông, quy định quản lý kho số viễn thông tại Nghị định này và bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân có liên quan.
Doanh nghiệp viễn thông cho thuê số thuê bao viễn thông phải là doanh nghiệp có khả năng đảm bảo đáp ứng được số lượng thuê bao viễn thông để cho doanh nghiệp thuê số thuê bao viễn thông cung cấp dịch vụ viễn thông.
Nghị định có hiệu lực thi hành từ ngày 20/7/2025.
Kết luận của Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Hồng Hà tại cuộc họp về Cơ chế điều phối liên ngành về phát triển bền vững kinh tế biển
Văn phòng Chính phủ ban hành Thông báo số 279/TB-VPCP ngày 4/6/2025 kết luận của Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Hồng Hà tại cuộc họp về Cơ chế điều phối liên ngành về phát triển bền vững kinh tế biển.
Nhận thức rõ vị trí, vai trò của biển, đảo đối với phát triển kinh tế, bảo vệ chủ quyền quốc gia, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành các chiến lược, cơ chế, chính sách để phát triển bền vững kinh tế biển, khai thác, sử dụng bền vững, hiệu quả tài nguyên, môi trường biển. Với đặc thù của không gian biển, nơi diễn ra nhiều hoạt động kinh tế chồng lấn và bối cảnh nhiều quy hoạch liên quan đến không gian và tài nguyên biển đã được phê duyệt thì yêu cầu về một cơ chế phối hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa các cơ quan ngày càng trở nên cấp thiết trong quá trình triển khai Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 22/10/2018 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 (Chiến lược).
Để phát huy hiệu quả của cơ chế điều phối trong quản lý, khai thác tổng hợp tài nguyên, giải quyết các xung đột và lựa chọn phương án tối ưu giữa các lĩnh vực phát triển trên biển phù hợp với Chiến lược và các quy hoạch đã được phê duyệt, Phó Thủ tướng yêu cầu Bộ Nông nghiệp và Môi trường cần chủ trì phối hợp với các Bộ, ngành tập trung rà soát chức năng, nhiệm vụ, quy chế làm việc của Ủy ban chỉ đạo quốc gia về thực hiện Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 (Ủy ban chỉ đạo quốc gia) để xác định rõ phạm vi, tính chất, các công việc thuộc thẩm quyền giải quyết, xử lý của Ủy ban chỉ đạo quốc gia để tách bạch giữa chức năng điều phối và thẩm quyền quản lý theo quy định của pháp luật phù hợp chức năng nhiệm vụ được giao của các Bộ, ngành, cơ quan; nghiên cứu thành lập tổ chức phối hợp liên ngành tương tự cấp Trung ương tại các địa phương nhằm giải quyết hiệu quả các vấn đề liên lĩnh vực, liên xã.
Đồng thời, Bộ Nông nghiệp và Môi trường cần chủ trì phối hợp với các Bộ, ngành xây dựng, hoàn thiện quy chế điều phối của Ủy ban chỉ đạo quốc gia dựa trên căn cứ khoa học, pháp lý và trên các nguyên tắc:
1- Ủy ban chỉ đạo quốc gia tập trung vào các vấn đề liên ngành, liên vùng, giải quyết các vấn đề xung đột phát triển, đa ngành, đa lĩnh vực tại một vùng biển (xung đột giữa các hoạt dộng kinh tế hàng hải, điện gió, thủy sản, du lịch, dầu khí...), những vấn đề cần sự phối hợp với quốc tế (như vấn đề về khai thác, quản lý tổng hợp vùng bờ, về biến đổi khí hậu, về rác thải nhựa đại dương,...);
2- Phân cấp, phân quyền phù hợp với thẩm quyền của Trung ương và địa phương;
3- Các nhiệm vụ cụ thể thuộc trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước.
4- Hoạt động điều phối cần dựa trên cơ sở dữ liệu thống nhất, tập trung, chia sẻ thông tin, bộ công cụ phân tích - đánh giá, hỗ trợ lựa chọn phương án phát triển phù hợp, đặc biệt ở khu vực tiềm năng cao dựa trên ứng dụng dữ liệu lớn và AI.
Phó Thủ tướng yêu cầu Bộ Nông nghiệp và Môi trường cần phát huy vai trò của cơ quan thường trực của Ủy ban chỉ đạo quốc gia trong tham mưu, điều phối, tổng hợp, đánh giá việc thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp liên ngành về phát triển kinh tế biển, trong đó tập trung vào các nhiệm vụ trọng tâm như: tăng cường công tác điều tra cơ bản tài nguyên, môi trường biển và hải đảo; xây dựng, cập nhật và chuẩn hóa dữ liệu, thống nhất quản lý sử dụng hệ thống cơ sở dữ liệu tài nguyên, môi trường biển và hải đảo quốc gia; phối hợp với Bộ Tài chính để ưu tiên bố trí đủ kinh phí để thực hiện hiệu quả các đề án, dự án, nhiệm vụ đã được giao, các dự án thuộc Chương trình trọng điểm điều tra cơ bản tài nguyên, môi trường biển và hải đảo...
Phó Thủ tướng giao Bộ Nông nghiệp và Môi trường nghiên cứu, tham mưu Thủ tướng Chính phủ có văn bản chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương liên quan đẩy mạnh triển khai thực hiện một số nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách đã được giao tại các Nghị quyết, Kế hoạch, Quy hoạch liên quan, trong đó có tăng cường công tác phối hợp trong triển khai thực hiện; nội dung tham mưu cần cụ thể, đảm bảo nguyên tắc "6 rõ"; trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định trong tháng 6/2025.
Rà soát, tháo gỡ khó khăn 4 dự án giao thông trọng điểm
Văn phòng Chính phủ vừa ban hành Thông báo số 285/TB-VPCP ngày 5/6/2025 kết luận của Phó Thủ tướng Bùi Thanh Sơn - Trưởng Đoàn Kiểm tra số 05 về rà soát, tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc liên quan đến các dự án giao thông trọng điểm có kế hoạch hoàn thành năm 2025 để đạt mục tiêu 3.000 km đường bộ cao tốc, gồm 04 dự án: Tuyên Quang - Hà Giang đoạn qua tỉnh Hà Giang, Tuyên Quang - Hà Giang đoạn qua tỉnh Tuyên Quang, Đồng Đăng - Trà Lĩnh, Hữu Nghị - Chi Lăng.
Thông báo nêu: Từ lần kiểm tra trước (Ngày 07 và 08 tháng 3 năm 2025) đến nay, các Bộ, ngành, địa phương, nhà thầu đã nỗ hoàn thành một số nhiệm vụ đề ra; đã ứng dụng công nghệ thông tin, lắp đặt hệ thống camera giám sát thường xuyên, liên tục quá trình thi công tại công trường. Biểu dương các chủ đầu tư, nhà đầu tư, nhà thầu thi công, đơn vị tư vấn, các kỹ sư, đặc biệt là người lao động, đã làm việc hăng say, miệt mài trên các công trường; đánh giá cao Bộ Xây dựng đã tổng hợp, cập nhật đầy đủ, kịp thời tiến độ các Dự án; Bộ Tài chính, Bộ Nông nghiệp và Môi trường, các tỉnh Tuyên Quang, Hà Giang đã tích cực triển khai các nhiệm vụ góp phần quan trọng đẩy nhanh tiến độ các Dự án.
Tuy nhiên, nhiều nhiệm vụ vẫn còn chưa hoàn thành, tiến độ thi công còn chậm, cụ thể: Tỉnh Tuyên Quang chưa hoàn thành dứt điểm giải phòng mặt bằng trong tháng 3/2025 (hiện còn 0,2 km); tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn chưa hoàn thành di dời hạ tầng kỹ thuật, bàn giao mặt bằng sạch; tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn chưa hoàn thành cấp mỏ vật liệu, bãi đổ thải cho dự án Đồng Đăng - Trà Lĩnh (thiếu 1,4 triệu m3 đất đắp (địa bàn Cao Bằng) và thiếu 0,5 triệu m3 đổ thải (địa bàn Lạng Sơn); tỉnh Lạng Sơn chưa hoàn thành cấp bổ sung vị trí đổ thải cho dự án Hữu Nghị - Chi Lăng (còn 21/42 vị trí chưa bàn giao).
Nhìn chung việc triển khai thi công các dự án chuyển biến chậm, gần 3 tháng thi công (1 Quý) các dự án chỉ tăng thêm được từ 10-12% khối lượng thi công, cụ thể: Dự án Tuyên Quang - Hà Giang đoạn qua Tuyên Quang: từ 28% lên đạt 38,37%, còn chậm 4% so với kế hoạch; Dự án Tuyên Quang - Hà Giang đoạn qua Hà Giang từ 51% lên đạt 59%, còn chậm 12% so với kế hoạch; Dự án Đồng Đăng - Trà Lĩnh, sản lượng từ 18,94% lên đạt 28,12%; Dự án Hữu Nghị - Chi Lăng từ 7,58% lên đạt 20,12%, chậm 27,92% so với kế hoạch.
Trong gần 1 quý, khối lượng thi công chỉ tăng từ 10-12% thì với thời gian còn lại 7 tháng, việc hoàn thành từ 40% đến hơn 70% còn lại là khó có thể đạt được nếu
Lãnh đạo các địa phương không quyết liệt chỉ đạo; các Chủ đầu tư/Nhà thầu thi công không cải tiến cách làm.
Do đó, Phó Thủ tướng yêu cầu các tỉnh, các Chủ đầu tư, Ban Quản lý dự án, nhà thầu thi công cần phải tập trung cao nhất để đẩy nhanh hơn nữa tiến độ thi công, đây là điểm mấu chốt để hoàn thành các Dự án.
Mục tiêu hoàn thành, bảo đảm đạt 3.000 Km đường cao tốc trong năm 2025 là không thay đổi
Phó Thủ tướng yêu cầu các Bộ ngành, địa phương liên quan quán triệt và thực hiện nghiêm chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ để đảm bảo hoàn thành các mục tiêu đã đề ra của từng dự án. Mục tiêu hoàn thành, bảo đảm đạt 3.000 Km đường cao tốc trong năm 2025 là không thay đổi. Lãnh đạo 4 tỉnh đều cam kết hoàn thành các Dự án trong năm 2025, do đó cần huy động sự vào cuộc cả hệ thống chính trị, các đồng chí Bí thư, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các cấp ủy Đảng, chính quyền, cơ quan, đoàn thể, chỉ đạo các cơ quan, đơn vị, tổ chức doanh nghiệp có liên quan với tinh thần quyết tâm phải cao, nỗ lực phải lớn, hành động phải quyết liệt, có trọng tâm, trọng điểm; phân công nhiệm vụ 6 rõ: rõ người, rõ việc, rõ trách nhiệm, rõ thẩm quyền, rõ thời gian, rõ sản phẩm.
Tập trung mọi nguồn lực cần thiết để khắc phục khó khăn, thời tiết bất lợi; phát huy tinh thần "vượt nắng, thắng mưa, không thua bão gió", "ăn tranh thủ, ngủ khẩn trương", "làm việc xuyên ngày nghỉ, ngày lễ, ngày tết", "làm ngày không đủ tranh thủ làm đêm"…; huy động tối đa trang thiết bị, máy móc, áp dụng kỹ thuật hiện đại để hoàn thành các mục tiêu đã đề ra.
Giải quyết dứt điểm các tồn tại về giải phóng mặt bằng trước 10/6/2025
Đối với công tác giải phóng mặt bằng, di dời hạ tầng kỹ thuật, vật liệu, bãi đổ thải, Phó Thủ tướng khẳng định đây là các công việc có khối lượng không còn nhiều, yêu cầu các địa phương khẩn trương, quyết liệt giải quyết dứt điểm các tồn tại trước ngày 10 tháng 6 năm 2025, cụ thể:
- Tỉnh Tuyên Quang: Giải quyết dứt điểm công tác di dời hạ tầng kỹ thuật (đường điện, cáp viễn thông).
- Tỉnh Cao Bằng: Hoàn thành di dời 01 vị trí đường điện cao thế còn lại.
- Tỉnh Lạng Sơn: (i) Đối với dự án Đồng Đăng - Trà Lĩnh, hoàn thành di dời 01 cột điện cao thế và vận động 10 hộ dân bàn giao mặt bằng cho nhà thầu thi công; (ii) Đối với dự án Hữu Nghị - Chi Lăng, khẩn trương yêu cầu Chủ đầu tư bàn giao ranh giới giải phóng mặt bằng điều chỉnh, bổ sung các đoạn còn lại để hoàn thiện các thủ tục theo quy định; tiếp tục đẩy mạnh tiến độ, giải quyết dứt điểm các vướng mắc, tuyệt đối không để ảnh hưởng đến thi công dự án.
Đẩy nhanh tiến độ thi công đi đôi với đảm bảo chất lượng
Về thi công, Phó Thủ tướng yêu cầu quyết liệt đẩy nhanh tiến độ thi công đi đôi với đảm bảo chất lượng là nhiệm vụ cốt lõi hiện nay.
Các Chủ đầu tư/Ban Quản lý dự án, tư vấn, các nhà thầu tiếp tục rà soát, cập nhật lại tiến độ thi công theo mục tiêu hoàn thành thông tuyến trên lớp bê tông nhựa trong năm 2025, xác định rõ đường "găng" (phải có giải pháp để bù lại khối lượng đã chậm, dự phòng thời gian trong điều kiện thời tiết không thuận lợi, cần hoàn thành công tác nền đường trước mùa mưa lũ); tăng cường gấp 2 - 3 nhân lực, máy móc thiết bị thi công so với hiện nay; tổ chức thi công 3 ca, 4 kíp, thi công cả ngày nghỉ, ngày lễ, ngày tết; tăng cường nguồn lực tài chính để đẩy nhanh tiến độ.
Phó Thủ tướng có yêu cầu cụ thể đối với các dự án như sau:
Dự án cao tốc Tuyên Quang - Hà Giang: Lập lại tiến độ thi công chi tiết đảm bảo mục tiêu hoàn thành giai đoạn 1 vào dịp ngày 19/12/2025, tăng cường thi công tại các điểm đường găng về tiến độ, tập trung thông toàn bộ nền đường trong tháng 6/2025, trước mùa mưa lũ.
Các dự án cao tốc Đồng Đăng - Trà Lĩnh và Hữu Nghị - Chi Lăng: Lập lại tiến độ theo mục tiêu hoàn thành thông tuyến trên lớp bê tông nhựa, tăng cường thi công tại các vị trí thuộc đường găng tiến độ, phấn đấu hoàn thành vào dịp ngày 19/12/2025.
Phó Thủ tướng yêu cầu các cấp ủy, chính quyền địa phương tổ chức họp giao ban 1 tuần/lần giữa Ủy ban nhân dân tỉnh với các cơ quan liên quan và các nhà thầu tư vấn, thi công để giải quyết dứt điểm những vướng mắc còn tồn đọng; tăng cường kiểm tra, đôn đốc để bảo đảm thực hiện đúng chỉ đạo về việc tăng cường nhân lực, máy móc, tăng ca tăng kíp thi công như trên; tăng cường động viên, thăm hỏi các lực lượng thi công trên công trường; kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho đơn vị thi công, người lao động, kể cả về đời sống, sinh hoạt; lưu ý bảo đảm các điều kiện về chỗ ăn ở, sinh hoạt bảo đảm thuận tiện, an toàn, nhất là trong mùa mưa lũ; huy động các lực lượng tại chỗ để hỗ trợ đơn vị thi công (vận chuyển máy móc, vật tư, vật liệu, san lấp, …)
Ủy ban nhân dân các tỉnh yêu cầu các Ban Quản lý dự án/Chủ đầu tư thường xuyên kiểm tra, đôn đốc các đơn vị tư vấn giám sát, nhà thầu trong công tác quản lý chất lượng công trình, "không vì tiến độ mà bỏ qua chất lượng", đặc biệt cần lưu ý đến chất lượng thi công xây dựng các công trình có tính chất phức tạp như hầm, cầu lớn, các đoạn đào sâu, đắp cao, các vị trí tuyến qua khu vực có hang Karst... để đảm bảo chất lượng khai thác ổn định, lâu dài.
Bộ Tài chính chủ động phối hợp với Văn phòng Chính phủ, các cơ quan liên quan báo cáo cấp có thẩm quyền để bổ sung nguồn vốn trước ngày 15/6/2025, đảm bảo bố trí đầy đủ, kịp thời nhu cầu về vốn cho các dự án hoàn thành trong năm 2025.
Ủy ban nhân dân các tỉnh khẩn trương chỉ đạo rà soát, nghiên cứu phương án đầu tư trạm dừng nghỉ, hệ thống giám sát giao thông ITS, thu phí ETC, kiểm soát tải trọng xe bảo đảm hoàn thành đồng bộ với các dự án.
Tăng cường thanh kiểm tra, chống thông thầu
Phó Thủ tướng yêu cầu các Bộ ngành, cơ quan và địa phương có liên quan căn cứ chức năng nhiệm vụ quyền hạn giải quyết các nhiệm vụ được giao đúng tiến độ, nếu có khó khăn vướng mắc, kịp thời tổng hợp báo cáo cấp có thẩm quyền; đồng thời tăng cường công tác thanh kiểm tra, phòng chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí, chống thông thầu, mua bán thầu,…
Bộ Xây dựng, với vai trò là cơ quan thường trực của Đoàn kiểm tra, tiếp tục chủ động theo dõi, nắm bắt tình hình, phối hợp cùng Văn phòng Chính phủ để đôn đốc các nhiệm vụ được giao, kịp thời tổng hợp báo cáo cấp có thẩm quyền giải quyết những khó khăn, vướng mắc.
Phó Thủ tướng đề nghị các địa phương, Bộ, ngành và các Ban quản lý dự án/Doanh nghiệp dự án, các nhà thầu thi công, các cơ quan, các đơn vị và mỗi cá nhân liên quan nêu trên trong năm 2025 xác định nhiệm vụ hoàn thành các công trình đường cao tốc là nhiệm vụ chính trị hàng đầu, phấn đấu thực hiện thành công Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, thi đua lập thành tích chào mừng Đại hội Đảng lần thứ XIV; chủ động nêu cao trách nhiệm cá nhân, trách nhiệm với tập thể, đặt lợi ích quốc gia lên hàng đầu, đáp ứng sự mong mỏi của Nhân dân, cộng đồng doanh nghiệp.
PV