Chiến dịch Trị Thiên - Huế đập tan tuyến phòng thủ vững chắc của địch

Chiến dịch Trị Thiên - Huế đập tan tuyến phòng thủ vững chắc của địch
14 giờ trướcBài gốc
Trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, địch tập trung lực lượng từ Quảng Trị vào Nam Quảng Ngãi gồm những đơn vị chủ lực mạnh nhất và cũng là tuyến phòng thủ vòng ngoài mạnh nhất. Đầu tháng 3-1975, ngụy quân tập trung ở đây 5 sư đoàn, 4 liên đoàn biệt động quân; 50 tiểu đoàn, 5 đại đội bảo an, 6 đại đội cảnh sát dã chiến; 5 thiết đoàn, 13 chi đội xe thiết giáp (449 chiếc); 21 tiểu đoàn, 4 đại đội, 14 trung đội pháo binh (418 khẩu)... Tổng quân số địch có 134.000 tên; riêng địa bàn Trị Thiên-Huế, đến đầu tháng 3-1975, địch bố trí tổng quân số khoảng 56.000 tên, gồm Sư đoàn bộ binh 1, Sư đoàn thủy quân lục chiến, Sư đoàn dù và một số đơn vị binh chủng.
Quân giải phóng tiến vào Ngọ Môn, phía trước Thành nội Huế. Ảnh tư liệu
Thực hiện kế hoạch tác chiến của Bộ Tổng Tư lệnh, cuối năm 1974, Quân đoàn 2 và Quân khu Trị-Thiên chuẩn bị chiến trường để sẵn sàng đón thời cơ. Đến tháng 2-1975, Đảng ủy Mặt trận thống nhất mở hai chiến dịch tiến công tổng hợp vào xuân hè và thu 1975. Ngoài kế hoạch cơ bản trên, Mặt trận còn dự kiến “kế hoạch thời cơ” tiến tới giải phóng hoàn toàn Trị Thiên-Huế. Công tác chuẩn bị và tiến hành Chiến dịch Trị Thiên-Huế nhằm phối hợp với chiến trường chính Tây Nguyên được thực hiện theo kế hoạch cơ bản.
Ngày 5-3-1975, phối hợp với chiến trường chính Tây Nguyên, Quân khu Trị-Thiên bắt đầu nổ súng tiến công địch. Sau chiến thắng dồn dập của ta ở Tây Nguyên, đặc biệt là trận then chốt mở đầu Buôn Ma Thuột dẫn đến quyết định sai lầm về chiến lược của Tổng thống ngụy Nguyễn Văn Thiệu khi ra lệnh rút bỏ Kon Tum, Pleiku, thực hiện âm mưu co cụm chiến lược. Theo đó, Sư đoàn thủy quân lục chiến địch ở Quảng Trị được điều về Đà Nẵng thay thế cho Sư đoàn dù ở Đà Nẵng về tăng cường phòng thủ Sài Gòn. Thắng lợi lớn của Quân giải phóng ở Tây Nguyên và sự điều động lực lượng chiến lược của Nguyễn Văn Thiệu đã làm cho địch ở Trị Thiên-Huế hoang mang. Bộ tư lệnh Quân đoàn 1 ngụy Sài Gòn vội vã triệu tập các tướng lĩnh bàn cách bố trí lại lực lượng. Tuy nhiên, sự điều chỉnh lực lượng của địch chỉ là sự “chắp vá” để đối phó thụ động với Quân giải phóng.
Trước diễn biến mau lẹ của chiến trường, ngày 17-3-1975, Thường vụ Khu ủy và Quân khu ủy Trị-Thiên họp hạ quyết tâm kiên quyết sử dụng toàn bộ lực lượng, chủ động, táo bạo, bất ngờ tiến công trên hai hướng: Hướng Đông từ thôn Thanh Hội theo trục Đường 68; hướng Tây từ Tích Tường, Như Lệ theo Đường 1 tiến vào phía Nam. Ngày 18-3, Bộ Tổng Tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam dự kiến địch có thể bỏ địa bàn từ Huế đến sông Thạch Hãn về co cụm ở Đà Nẵng. Sự hoang mang tột độ của địch sẽ làm chúng tan rã từng mảng lớn. Đây là thời cơ để Quân khu Trị-Thiên đẩy mạnh tiến công không cho địch rút khỏi Bắc Huế một cách an toàn. Với sức tiến công táo bạo, khẩn trương, các mũi tiến công đồng loạt diễn ra từ đêm 18 đến chiều tối 19-3-1975, tỉnh Quảng Trị được giải phóng, tuyến phòng thủ địa đầu phía Bắc của địch đứng trước nguy cơ tan vỡ hoàn toàn.
Phối hợp với Quảng Trị, ở khu vực phía Bắc tỉnh Thừa Thiên, bộ đội chủ lực cùng bộ đội địa phương, dân quân, du kích phát động quần chúng nổi dậy tiến công, tiêu hao, tiêu diệt địch và giành quyền làm chủ. Bị tiến công mạnh, bất ngờ trên toàn tuyến phòng thủ phía Bắc, đến ngày 19-3-1975, địch lại vội vã rút chạy về phía Nam, tổ chức co cụm trên tuyến Mỹ Chánh-Thanh Hương.
Diễn biến chiến trường quá mau lẹ khiến tướng Ngô Quang Trưởng, Tư lệnh Quân đoàn 1-Quân khu 1 bay vào Sài Gòn xin duyệt kế hoạch phòng thủ mới gồm 3 chốt lớn (Huế, Đà Nẵng, Chu Lai) vừa trở về đã nghe tin mất toàn bộ tỉnh Quảng Trị. Quá hoảng hốt, Ngô Quang Trưởng liền vội vã ra Hương Điền triệu tập chỉ huy các đơn vị thuộc quyền bàn kế hoạch phòng thủ Thừa Thiên-Huế.
Ngay chiều 19-3-1975, Bộ tư lệnh Quân khu Trị-Thiên họp và nhận định thời cơ lớn đã đến, nhanh chóng chuẩn bị phương án, kế hoạch giải phóng Thừa Thiên-Huế. Bộ tư lệnh Quân khu lệnh cho Tỉnh đội Quảng Trị không được dừng lại, thừa thắng xông lên, trực tiếp sử dụng lực lượng vũ trang phát triển xuống phía Nam, bám địch mà đánh và nhấn mạnh: “Dừng lại là một tội lỗi không thể tha thứ được”. Ngày 20-3-1975, Bộ Tổng Tư lệnh điện biểu dương tinh thần chiến đấu của Quân khu Trị-Thiên và chỉ thị tiếp tục tiến công, không dừng lại ở Mỹ Chánh... tiêu diệt địch ở Huế, bịt chặt cửa biển Thuận An, không cho địch rút chạy theo hướng biển.
Thời điểm đó, mặc dù quân địch hoang mang đến tột độ, nhưng lực lượng vẫn còn đông và có ý định cố thủ ở Huế đến cùng. Chấp hành chỉ đạo của trên, Thường vụ Khu ủy và Quân khu ủy Trị-Thiên họp, quyết định: “Tranh thủ thời cơ, dốc toàn lực giải phóng Thừa Thiên-Huế...”. Ngày 20-3-1975, mọi công tác chuẩn bị tiến công giải phóng Thừa Thiên-Huế cơ bản đã hoàn thành. 5 giờ 40 phút ngày 21-3-1975, đợt tiến công giải phóng Thừa Thiên-Huế chính thức bắt đầu. Sau 4 ngày tiến công mạnh mẽ, quyết liệt, các mũi tiến công của Quân khu Trị-Thiên và Quân đoàn 2 đã hợp điểm đầy đủ trong TP Huế. Trưa 25-3-1975, toàn bộ ngụy quân, ngụy quyền ở Trị Thiên-Huế bị tan rã.
Thắng lợi của Chiến dịch Trị Thiên-Huế có ý nghĩa chiến lược, là cú “đánh bồi” song song với Chiến dịch Tây Nguyên và Chiến dịch Nam Ngãi khiến cho Quân đoàn 1-Quân khu 1 địch gần như sụp đổ hoàn toàn, những sư đoàn sừng sỏ nhất của ngụy quân Sài Gòn bố trí ở đây đều bị tan rã và tháo chạy. Bức tường thép kiên cố ngăn chặn miền Bắc xã hội chủ nghĩa trong suốt 21 năm đã bị sụp đổ một cách chóng vánh, tiếp tục dồn ép địch vào thế cùng quẫn, phải vùng vẫy trong khu căn cứ liên hợp quân sự Đà Nẵng. Phản ứng dây chuyền từ Chiến thắng Tây Nguyên, Chiến thắng Nam Ngãi, Chiến thắng Trị Thiên-Huế đã cô lập địch ở Đà Nẵng. Số phận của địch ở Đà Nẵng chỉ tính bằng ngày sau Chiến thắng Trị Thiên-Huế.
Từ là hướng phối hợp với Chiến dịch Tây Nguyên, khi thời cơ đến, Quân khu Trị-Thiên đã tổ chức tiến công mạnh mẽ, quyết liệt, táo bạo, đẩy địch vào thế hoang mang, bị động, lúng túng, làm tan rã cả một tuyến phòng thủ chiến lược của địch. Toàn bộ lực lượng Quân đoàn 2-Quân khu 2 và Quân đoàn 1-Quân khu 1 của địch như "rắn mất đầu", chỉ còn lại một lực lượng co cụm về Đà Nẵng. Đây là thời cơ lớn để Bộ Tổng Tư lệnh quyết định mở Chiến dịch Đà Nẵng.
Đại tá, PGS, TS NGUYỄN VĂN SÁU, Phó viện trưởng Viện Chiến lược và Lịch sử quốc phòng Việt Nam
Nguồn QĐND : https://www.qdnd.vn/50-nam-dai-thang-mua-xuan-1975/chien-dich-tri-thien-hue-dap-tan-tuyen-phong-thu-vung-chac-cua-dich-821187