Nghị định này có hiệu lực từ ngày 1/7/2025 và tập trung cụ thể hóa các quy định về bán và thanh lý tài sản công với mục tiêu nâng cao hiệu quả quản lý, sử dụng tài sản nhà nước, đồng thời bảo đảm nguyên tắc công khai, minh bạch trong toàn bộ quá trình xử lý tài sản công.
Theo Nghị định 186/2025/NĐ-CP, thẩm quyền quyết định bán tài sản công được xác định rõ tại Điều 28 và thực hiện theo phân cấp.
Cụ thể, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan trung ương có quyền quyết định hoặc phân cấp quyết định bán tài sản cố định tại các cơ quan thuộc phạm vi quản lý.
Chủ tịch UBND cấp tỉnh cũng được trao thẩm quyền tương tự đối với các cơ quan nhà nước thuộc địa phương mình. Đối với tài sản do Văn phòng HĐND cấp tỉnh quản lý, Chánh Văn phòng HĐND có quyền quyết định việc bán.
Ngoài ra, các cơ quan có tài sản công được phép chủ động quyết định bán đối với tài sản cố định theo phân cấp và các loại tài sản công không thuộc diện tài sản cố định.
Trình tự thực hiện việc bán tài sản công được thiết lập rõ ràng nhằm bảo đảm tính minh bạch và tuân thủ đúng thẩm quyền. Theo đó, cơ quan có tài sản sẽ lập hồ sơ đề nghị bán và gửi lên cơ quan quản lý cấp trên (nếu có) để trình cơ quan có thẩm quyền xem xét, quyết định.
Trong thời hạn 20 ngày kể từ khi nhận đủ hồ sơ hợp lệ, cơ quan có thẩm quyền phải ban hành quyết định bán hoặc có văn bản trả lời nếu đề nghị không phù hợp.
Sau khi có quyết định, việc tổ chức bán tài sản sẽ do cơ quan có tài sản hoặc cơ quan được giao nhiệm vụ quản lý tài sản công thực hiện.
Trường hợp chưa hoàn thành việc bán đúng thời hạn, cơ quan này có thể đề xuất gia hạn hoặc áp dụng phương án xử lý khác phù hợp. Sau khi hoàn tất việc bán, cơ quan có tài sản phải thực hiện hạch toán giảm tài sản và kê khai biến động trong thời hạn 30 ngày.
Nghị định quy định ba phương thức bán tài sản công bao gồm: đấu giá, niêm yết giá và chỉ định. Việc lựa chọn phương thức phù hợp phải tuân thủ nguyên tắc cạnh tranh, công khai và đảm bảo hiệu quả kinh tế đối với tài sản nhà nước.
Về thẩm quyền thanh lý tài sản công, Nghị định số 186/2025/NĐ-CP quy định cụ thể theo hướng phân cấp rõ ràng. Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan trung ương được quyết định hoặc phân cấp quyết định việc thanh lý tài sản cố định thuộc phạm vi quản lý.
Tương tự, Chủ tịch UBND cấp tỉnh được trao thẩm quyền đối với tài sản của các cơ quan nhà nước tại địa phương. Riêng đối với tài sản do Văn phòng HĐND cấp tỉnh quản lý, Chánh Văn phòng HĐND có thẩm quyền quyết định. Cơ quan có tài sản công cũng có thể trực tiếp quyết định thanh lý các loại tài sản cố định theo phân cấp và tài sản không phải là tài sản cố định.
Việc thanh lý tài sản công được thực hiện khi tài sản đã hết niên hạn sử dụng, bị hư hỏng không còn khả năng sửa chữa hiệu quả (chi phí sửa chữa vượt quá 30% nguyên giá), hoặc cần được phá dỡ để thực hiện các dự án đầu tư, giải phóng mặt bằng.
Cơ quan có tài sản lập hồ sơ đề nghị thanh lý và trình cơ quan cấp trên (nếu có) để xem xét, trình cấp có thẩm quyền quyết định. Trong thời hạn 20 ngày kể từ ngày tiếp nhận đầy đủ hồ sơ hợp lệ, cơ quan có thẩm quyền phải ban hành quyết định hoặc có văn bản trả lời chính thức.
Sau khi có quyết định, quá trình tổ chức thanh lý phải được triển khai trong vòng 60 ngày đối với nhà, công trình xây dựng gắn liền với đất; hoặc trong vòng 30 ngày đối với các loại tài sản khác.
Nghị định cũng quy định rõ trường hợp tài sản phải phá dỡ, hủy bỏ để phục vụ giải phóng mặt bằng hoặc triển khai dự án đầu tư do Nhà nước thu hồi đất thì không cần thực hiện thủ tục báo cáo, xin quyết định thanh lý.
Trong trường hợp này, chi phí phá dỡ, hủy bỏ sẽ được tính vào chi phí thực hiện dự án; giá trị vật tư, vật liệu thu hồi được xử lý theo quy định của dự án hoặc nộp ngân sách nhà nước theo quy định hiện hành.
Đối với hoạt động thanh lý, Nghị định quy định hai hình thức tổ chức gồm: bán tài sản và phá dỡ, hủy bỏ. Việc lựa chọn hình thức nào sẽ tùy thuộc vào tình trạng tài sản và mục đích xử lý cuối cùng, nhưng phải đảm bảo tuân thủ đúng quy trình và quy định pháp luật.
Những quy định mới này được kỳ vọng sẽ góp phần nâng cao hiệu quả quản lý, sử dụng tài sản công, đảm bảo sự công khai, minh bạch và tối ưu hóa nguồn lực nhà nước.
Đ.T