Để giải quyết tình huống cấp bách này, Chính phủ dự kiến ban hành Nghị quyết về một số cơ chế, chính sách đặc thù nhằm tháo gỡ khó khăn trong triển khai Luật Địa chất và Khoáng sản 2024 - vừa có hiệu lực từ ngày 1/7/2025. Trước đó, Quốc hội đã “mở đường” bằng Nghị quyết số 206/2025/QH15, cho phép Chính phủ được tạm thời điều chỉnh một số quy định pháp luật để xử lý vướng mắc thực tiễn.
Bối cảnh cho thấy sự cần thiết của chính sách đặc thù này. Các dự án hạ tầng giao thông, đầu tư công, công trình trọng điểm quốc gia đang đòi hỏi khối lượng lớn vật liệu xây dựng, trong khi nguồn cung không theo kịp, giá cả leo thang, tiến độ chậm trễ, tổng mức đầu tư đội lên. Một phần nguyên nhân bắt nguồn từ việc một số địa phương trước đây cấp phép khai thác không qua đấu giá, dẫn tới buộc phải thu hồi giấy phép, đóng cửa mỏ theo quy định mới. Quy trình cấp phép mới theo Luật lại chưa đủ linh hoạt trong bối cảnh cấp bách, khiến nguồn cung bị gián đoạn nghiêm trọng.
Dự thảo do Bộ Nông nghiệp và Môi trường chủ trì soạn thảo đã đề xuất 11 nhóm giải pháp. Trong đó, nhiều nội dung đáng chú ý như: cho phép mở rộng khai thác, nâng công suất với các mỏ đang khai thác phục vụ công trình cấp bách; tạm miễn một số thủ tục về cấp phép thăm dò, khai thác với khoáng sản nhóm III, IV trong tình huống khẩn cấp; bổ sung khu vực không đấu giá quyền khai thác khoáng sản trong một số trường hợp cụ thể...
Có thể thấy, mục tiêu của chính sách đặc thù là rất rõ ràng: tháo gỡ điểm nghẽn thể chế để tăng nguồn cung vật liệu xây dựng, bảo đảm tiến độ các công trình trọng điểm và duy trì vai trò “đầu kéo” của đầu tư công trong bối cảnh kinh tế nhiều khó khăn. Việc Chính phủ chủ động phản ứng chính sách, linh hoạt theo ủy quyền của Quốc hội, là tín hiệu tích cực, thể hiện tinh thần “nghị quyết đi vào cuộc sống” và bám sát thực tiễn phát triển.
Tuy nhiên, cần khẳng định rằng đây chỉ là giải pháp tạm thời. Bản thân cơ chế đặc thù, nếu không được kiểm soát chặt chẽ, có thể dẫn đến những rủi ro như: khai thác khoáng sản tràn lan, thiếu quy hoạch, thất thoát tài nguyên, tác động tiêu cực tới môi trường... Vì vậy, một mặt cần giới hạn phạm vi áp dụng ở những trường hợp thật sự cấp bách, tránh lợi dụng chính sách để hợp thức hóa sai phạm cũ; mặt khác, cần bổ sung cơ chế hậu kiểm mạnh mẽ, bảo đảm minh bạch, giám sát chặt chẽ trách nhiệm của các cơ quan có liên quan.
Cũng cần đặc biệt nhấn mạnh vai trò phản biện và giám sát xã hội trong thực thi chính sách đặc thù, từ phía các cơ quan dân cử, ĐBQH, đại biểu HĐND các cấp, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc và người dân. Việc giám sát chặt chẽ sẽ giúp ngăn chặn những biểu hiện lạm dụng chính sách, lợi ích nhóm trong khai thác tài nguyên khoáng sản, vốn là lĩnh vực rất nhạy cảm, dễ phát sinh tiêu cực.
Một nền quản trị tài nguyên hiện đại không thể dựa mãi vào các cơ chế đặc thù. Yêu cầu quan trọng và căn cơ là sửa đổi, hoàn thiện Luật Địa chất và Khoáng sản một cách đồng bộ, toàn diện cùng các luật liên quan… Việc này không chỉ để khắc phục những bất cập hiện tại trong cấp phép, quản lý và khai thác khoáng sản, mà còn để thiết lập một hành lang pháp lý thống nhất, minh bạch và hiệu quả, bảo đảm hài hòa giữa yêu cầu phát triển kinh tế với trách nhiệm gìn giữ tài nguyên và môi trường.
Hà Lan