Chính phủ trình chủ trương đầu tư dự án tuyến đường sắt Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng gần 8,4 tỷ USD

Chính phủ trình chủ trương đầu tư dự án tuyến đường sắt Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng gần 8,4 tỷ USD
8 giờ trướcBài gốc
Bộ trưởng Bộ GT-VT Trần Hồng Minh trình bày các tờ trình, chiều 13-2. Ảnh: QUANG PHÚC
Mục tiêu là xây dựng tuyến đường sắt mới hiện đại, đồng bộ nhằm đáp ứng nhu cầu vận tải nội địa, liên vận quốc tế giữa Việt Nam và Trung Quốc; tạo động lực quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững, phát huy lợi thế trên hành lang kinh tế Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng bảo đảm kết nối hiệu quả mạng lưới đường sắt trong nước và quốc tế, gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh và hội nhập quốc tế, bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu; thúc đẩy tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Để thực hiện thành công và sớm hoàn thành dự án theo tiến độ yêu cầu, Chính phủ đề xuất áp dụng 19 cơ chế, chính sách đặc thù, đặc biệt, trong đó có 15/19 cơ chế, chính sách đã được Quốc hội cho phép áp dụng đối với dự án đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc - Nam và đề xuất bổ sung 4 cơ chế, chính sách khác.
Chính phủ kiến nghị Quốc hội quyết định chủ trương đầu tư dự án có điểm đầu tại vị trí kết nối ray qua biên giới giữa ga Lào Cai mới và ga Hà Khẩu Bắc (Trung Quốc); điểm cuối tại khu bến Lạch Huyện. Chiều dài tuyến chính khoảng 390,9 km và 3 tuyến nhánh khoảng 27,9 km.
Địa điểm thực hiện dự án tại 9 tỉnh, thành phố: Lào Cai, Yên Bái, Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Hà Nội, Bắc Ninh, Hưng Yên, Hải Dương, Hải Phòng.
Các đại biểu dự phiên họp tại hội trường Diên Hồng, chiều 13-2. Ảnh: QUANG PHÚC
Quy mô đầu tư là xây dựng mới tuyến đường sắt điện khí hóa, đường đơn, khổ 1.435 mm, vận chuyển chung hành khách và hàng hóa; đoạn tuyến chính tốc độ thiết kế 160 km/giờ; đoạn qua khu vực đầu mối Hà Nội tốc độ thiết kế 120 km/giờ; các đoạn tuyến nối, tuyến nhánh tốc độ thiết kế 80 km/giờ.
Sơ bộ nhu cầu sử dụng đất khoảng 2.632 ha. Hình thức đầu tư là đầu tư công. Tổng mức đầu tư khoảng 203.231 tỷ đồng (8,369 tỷ USD). Nguồn vốn gồm ngân sách nhà nước (trung ương, địa phương); nguồn vốn trong nước, nguồn vốn nước ngoài và các nguồn vốn hợp pháp khác.
Về tiến độ thực hiện, lập báo cáo nghiên cứu khả thi từ năm 2025, phấn đấu cơ bản hoàn thành dự án năm 2030.
Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Vũ Hồng Thanh trình bày báo cáo thẩm tra về chủ trương đầu tư dự án này cho biết, Ủy ban Kinh tế thống nhất sự cần thiết đầu tư dự án.
Về hiệu quả của dự án, theo tờ trình của Chính phủ, dự kiến trong 5 năm đầu tiên khai thác, doanh thu dự kiến chỉ bù đắp chi phí vận hành, bảo trì, phương tiện, Nhà nước cần hỗ trợ sơ bộ khoảng 109,36 triệu USD trong 5 năm cho chi phí bảo trì kết cấu hạ tầng từ nguồn vốn sự nghiệp kinh tế bố trí cho hệ thống đường sắt như bảo trì kết cấu hạ tầng đường sắt quốc gia hiện nay.
Cùng với đó, dự án đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc - Nam dự kiến trong 4 năm đầu khai thác cũng sẽ phải bù lỗ khoảng 778 triệu USD. Như vậy, riêng 2 dự án này Nhà nước cần hỗ trợ sơ bộ khoảng 887,36 triệu USD. Do đó, Ủy ban Kinh tế đề nghị đánh giá tổng thể hiệu quả của các dự án đường sắt dự kiến sẽ đầu tư và đánh giá kỹ lưỡng phương án tài chính, các tác động trong quá trình vận hành, khai thác của các dự án để giảm thiểu các rủi ro về sau.
Về nguồn vốn cho dự án, Ủy ban Kinh tế cho rằng, dự án có quy mô và tổng mức đầu tư rất lớn, trong kỳ trung hạn 2021 - 2025, nhu cầu vốn cho dự án khoảng 128 tỷ đồng đã được Chính phủ cân đối trong kế hoạch đầu tư công trung hạn. Giai đoạn 2026 - 2030, nhu cầu vốn khoảng 177.282 tỷ đồng và giai đoạn 2031 - 2035, nhu cầu vốn khoảng 25.821 tỷ đồng.
Nguồn vốn cho dự án được Chính phủ kiến nghị sử dụng nguồn vốn trong nước, nguồn vốn nước ngoài và các nguồn vốn hợp pháp khác, đồng thời đề xuất một số cơ chế, chính sách đặc thù, đặc biệt như không thẩm định khả năng cân đối vốn theo quy định của Luật Đầu tư công; trong quá trình thực hiện dự án, cho phép Thủ tướng Chính phủ được quyết định phát hành trái phiếu Chính phủ, huy động vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA), vốn vay ưu đãi nước ngoài, sử dụng nguồn tăng thu, tiết kiệm chi ngân sách trung ương hàng năm (nếu có) và các nguồn vốn hợp pháp khác để bảo đảm tính phù hợp, khả thi cho dự án.
Các cơ chế, chính sách đặc thù, đặc biệt này đã được Quốc hội cho phép áp dụng trong thời gian qua và đã được cấp có thẩm quyền xem xét, cho ý kiến. Do đó kiến nghị của Chính phủ là có cơ sở. Tuy nhiên, cơ quan thẩm tra đề nghị trong quá trình triển khai, thực hiện cần tuân thủ nguyên tắc bảo đảm các cân đối vĩ mô và an toàn nợ công quốc gia.
Về các cơ chế, chính sách đặc thù, đặc biệt triển khai đầu tư dự án, Ủy ban Kinh tế cho rằng, để bảo đảm tính khả thi, hiệu quả cho Dự án thì việc Chính phủ đề xuất Quốc hội cho phép áp dụng một số cơ chế, chính sách đặc thù, đặc biệt là rất cần thiết. Chính phủ đề xuất cho phép áp dụng 15 chính sách tại Nghị quyết số 172/2024/QH15, Ủy ban Kinh tế cơ bản nhất trí với các cơ chế, chính sách này.
Riêng với chính sách 19 về loại trừ, miễn hoặc giảm nhẹ trách nhiệm với người đứng đầu cơ quan, đơn vị, cán bộ, công chức, viên chức tham gia, thực hiện dự án, Ủy ban Kinh tế cho rằng, đây là chính sách chưa có tiền lệ, do vậy trường hợp cần thiết Chính phủ cần báo cáo xin ý kiến cấp có thẩm quyền trước khi trình Quốc hội xem xét, quyết định.
LÂM NGUYÊN
Nguồn SGGP : https://sggp.org.vn/chinh-phu-trinh-chu-truong-dau-tu-du-an-tuyen-duong-sat-lao-cai-ha-noi-hai-phong-gan-84-ty-usd-post781716.html