Bộ Tư pháp vừa công bố hồ sơ thẩm định dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc thù để thực hiện đột phá phát triển giáo dục và đào tạo do Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trì xây dựng.
6 nhóm chính sách lớn thực hiện đột phá phát triển giáo dục, đào tạo
Theo Bộ Giáo dục và Đào tạo, thời gian qua, mặc dù ngành giáo dục đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, nhưng Việt Nam vẫn đang đối mặt với những “điểm nghẽn” mang tính hệ thống, cản trở sự phát triển đột phá, ảnh hưởng trực tiếp đến năng lực cạnh tranh quốc gia. Trong đó, phải kể đến những bất cập, chồng chéo về thể chế, chính sách; tình trạng thừa thiếu giáo viên cục bộ xảy ra nhiều năm qua ảnh hưởng trực tiếp đến việc triển khai chương trình giáo dục hay những hạn chế nghiêm trọng về nguồn lực tài chính và đầu tư gây cản trở mục tiêu phát triển giáo dục đại học, nâng tầm các trường đại học Việt Nam lên đẳng cấp khu vực và thế giới; các rào cản trong thu hút nhân tài và hội nhập quốc tế…
Vì vậy, việc xây dựng Nghị quyết là cần thiết nhằm triển khai hiệu quả Nghị quyết 71-NQ/TW ngày 22/8/2025 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo; nâng cao chất lượng, hiệu quả, tính đồng bộ, toàn diện, sâu rộng trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo, góp phần thiết thực xây dựng, phát triển nền giáo dục nước nhà.
Chính sách đặc thù mở đường đột phá cho giáo dục và đào tạo. (Ảnh minh họa: Báo Nhân Dân)
Dự thảo Nghị quyết gồm 10 Điều, tập trung giải quyết các vấn đề mang tính đột phá, chiến lược để thể chế hóa Nghị quyết 71-NQ/TW ngày 22/8/2025 của Bộ Chính trị và phát triển giáo dục và đào tạo, gồm các nhóm chính sách nổi bật sau:
Thứ nhất, nhóm chính sách về tổ chức, nhân lực và quản trị được xây dựng nhằm giải quyết vấn đề nhân lực ngành giáo dục, bao gồm tình trạng thừa thiếu giáo viên cục bộ, chế độ đãi ngộ bất cập và các rào cản hành chính trong việc tuyển dụng, sử dụng nhân tài, chuyên gia.
Thứ hai, nhóm chính sách về chương trình, nội dung và cơ chế phát triển giáo dục được xây dựng nhằm tháo gỡ thủ tục hành chính trong thẩm định, phê duyệt và thí điểm chương trình giáo dục mới, tạo không gian và động lực cho sự đổi mới, sáng tạo từ cấp cơ sở, đáp ứng nhanh với sự thay đổi của thực tiễn.
Thứ ba, nhóm chính sách về chuyển đổi số, phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo trong giáo dục nhằm đáp ứng yêu cầu của Chương trình Chuyển đổi số quốc gia và xu thế phát triển tất yếu của giáo dục thế giới, khắc phục tình trạng hạ tầng số và các nền tảng ứng dụng trong ngành còn manh mún, thiếu đồng bộ, chưa phát huy hiệu quả.
Thứ tư, nhóm chính sách về hội nhập quốc tế trong giáo dục và đào tạo, nhằm phá bỏ các rào cản hành chính, tạo ra một môi trường thực sự mở và cạnh tranh để thu hút nhân tài toàn cầu, nâng cao vị thế và sức hấp dẫn của giáo dục Việt Nam trên trường quốc tế.
Thứ năm, nhóm chính sách về về Quỹ học bổng Quốc gia nhằm tạo ra một cơ chế tài chính linh hoạt, bổ sung ngân sách Nhà nước, để tài trợ cho các ý tưởng, dự án đổi mới, đột phá mà cơ chế ngân sách truyền thống khó đáp ứng kịp thời và hiệu quả.
Thứ sáu, nhóm chính sách về tài chính và đầu tư cho giáo dục và đào tạo được xây dựng nhằm giải quyết tình trạng đầu tư cho giáo dục chưa tương xứng và tăng cường huy động nguồn lực xã hội.
Cân nhắc cơ chế “đồng cơ hữu” đối với nhân lực giáo dục
Ngày 26/9, tại cuộc họp của Hội đồng thẩm định dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc thù để thực hiện đột phá giáo dục và đào tạo, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Tô Văn Hòa, Hiệu trưởng Trường đại học Luật Hà Nội nhận định, việc tận dụng năng lực của giảng viên, nhà khoa học là cần thiết, nhưng cơ chế “đồng cơ hữu” đối với nhân lực giáo dục có thể tiềm ẩn rủi ro. Trong khi đó, thực tế hiện nay đã có nhiều cơ chế linh hoạt như giảng viên thỉnh giảng, tham gia hợp tác nghiên cứu… Vì vậy, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Tô Văn Hòa đề nghị dự thảo Nghị quyết nên đưa ra các chính sách đãi ngộ để thu hút nguồn nhân lực giáo dục.
Về chính sách thu hút chuyên gia, nhà khoa học nước ngoài, đại diện Bộ Công an đề nghị chỉ thí điểm cơ chế miễn thị thực và miễn giấy phép lao động trong thời hạn 5 năm cho người có trình độ tiến sĩ, nhưng phải qua thẩm định nhân thân, lý lịch của Bộ Công an theo quy định pháp luật về nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam. Đồng thời, không nên trao quyền cho các cơ sở giáo dục trong việc quản lý chuyên gia nước ngoài mà cần được thực hiện thống nhất theo pháp luật hiện hành và bảo đảm vai trò thẩm định của cơ quan quản lý Nhà nước về an ninh.
Liên quan đến thẩm quyền bổ nhiệm lãnh đạo các cơ sở giáo dục, Thứ trưởng Tư pháp Đặng Hoàng Oanh đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo cân nhắc nên để bộ, ngành chủ quản quyết định, nhất là trong giai đoạn chuyển tiếp khi bãi bỏ hội đồng trường, bởi mỗi trường đều có tiêu chí, đặc thù riêng. Thứ trưởng cũng đề nghị làm rõ hơn các cơ chế đặc thù về nhân lực để phù hợp với đặc điểm từng ngành; cân nhắc cơ chế “đồng cơ hữu” đối với nhân lực giáo dục…
Thứ trưởng cũng lưu ý, việc giao thêm thẩm quyền cho một số trường đại học, nhất là cơ sở tư thục, phải đi kèm cơ chế kiểm tra, giám sát chặt chẽ để tránh lạm dụng, ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo và trật tự an ninh, an toàn xã hội.
VY ANH