Cần có cơ chế, chính sách phát triển đột phá khu vực kinh tế tư nhân.
Chỉ thị 05/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm, đột phá nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công, bảo đảm mục tiêu tăng trưởng cả nước năm 2025 đạt 8% trở lên mà Thủ tướng Phạm Minh Chính vừa ký ngày 1-3, có nội dung giao Bộ Tài chính khẩn trương nghiên cứu xây dựng, trình cấp có thẩm quyền ban hành nghị quyết về các cơ chế, chính sách phát triển đột phá khu vực kinh tế tư nhân (KTTN).
Không mới nhưng chưa bao giờ cũ
Theo đó, Chỉ thị 05 xác định quan điểm KTTN là một trong những động lực quan trọng nhất cho tăng trưởng, tăng năng suất lao động và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Trước mắt, liên quan đến hỗ trợ doanh nghiệp (DN), Thủ tướng giao Bộ Tài chính trước ngày 15-3 sẽ phải báo cáo cấp có thẩm quyền, các đề xuất các chính sách miễn, giảm, gia hạn thuế, phí, lệ phí và tiền thuê đất… để hỗ trợ người dân, DN, thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh, du lịch, tiêu dùng trong nước trong năm 2025.
Có thể nói, Chỉ thị 05 là sự khẳng định một lần nữa tầm quan trọng của KTTN và cụ thể hóa bằng thực tiễn. Trước đó, trong Nghị quyết 10-NQ/TW ngày 3-6-2017, Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII, cũng đã xác định về việc phát triển KTTN trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Điều này càng trở nên cần thiết hơn khi áp lực đạt mục tiêu tăng trưởng đang đặt ra trong năm và những năm nay tới là khá lớn. Thêm vào đó trong bối cảnh tiến hành tinh giản bộ máy, cũng đồng nghĩa với khu vực kinh tế nhà nước cũng dần thu hẹp lại nhường dần chỗ cho khu vực KTTN.
DN tư nhân “chậm lớn”
Theo thông tin cập nhật của Chính phủ, tính đến ngày 31-12-2024, cả nước có 940.078 DN đang hoạt động, 98% trong số này là DN nhỏ và vừa. Đây được đánh giá là nguồn nội lực quan trọng đối với nền kinh tế. Nhưng so với mục tiêu có ít nhất 2 triệu DN vào năm 2030 được đặt ra tại Nghị quyết 66/NQ-CP, ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết 41-NQ/TW của Bộ Chính trị, về xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ doanh nhân Việt Nam trong thời kỳ mới, khoảng cách còn khá thách thức.
Không những thế, Nghị quyết 66 đặt mục tiêu đến năm 2030, khu vực DN đóng góp khoảng 65-70% GDP cả nước, khoảng 32-38% tổng việc làm trong nền kinh tế, 98-99% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu.
Cũng cần nhìn nhận một thực tế như một nghịch lý. Đó là trong rất nhiều năm, các DN tư nhân Việt Nam rất… chậm lớn. Thậm chí, trong nhiều diễn đàn, tọa đàm, hội thảo, người ta đã phải đặt ra câu hỏi DN tư nhân “không thể lớn” hay “không muốn lớn”. Câu hỏi này đã có câu trả lời từ các chuyên gia và các DN đưa ra.
Thứ nhất, DN “không thể lớn” đó là quy luật bình thường, bởi theo thống kê của thế giới, các DN trong vòng 5 năm đầu hình thành 95% sẽ thất bại, chỉ sống sót được 5%. Từ 5% đó họ mới tăng trưởng lên 15, 20 năm. Do vậy, số DN hiện nay tồn tại trên 150 năm trên thế giới rất hiếm.
Thứ hai, DN tư nhân “không muốn lớn” đó là do e ngại từ môi trường chính sách. “Cây lớn thì gặp gió to, nên cứ phát triển từ từ cho an toàn” - đại diện DN đã từng cho biết như vậy.
Trên thực tế, chính vì sự “èo uột” của khối KTTN cũng là sự cản trở để Việt Nam có thể tiếp thu, vận dụng công nghệ cao vào sản xuất, tham gia vào chuỗi cung ứng. Bình luận về điều này, ông Võ Hồng Phúc, nguyên Bộ trưởng Bộ KH-ĐT cho rằng đây là điều đáng tiếc khi mà nhiều năm chúng ta vẫn chưa làm được, dù chúng ta đón nhận làn sóng đầu tư FDI rất nhiều.
“Khả năng tham gia chuỗi cung ứng của DN Việt trong hệ sinh thái sản xuất của DN FDI vẫn còn hạn chế, chưa tương xứng. Nhiều DN trong nước chưa đáp ứng được yêu cầu để thành nhà cung cấp cho DN FDI, nên khó khăn trong việc tham gia liên kết”- ông Phúc nói.
Tháo gỡ nghịch lý
Ông Phúc dẫn chứng, ngay từ năm 1995, khi làm việc với Nhật Bản trong dự án giúp Việt Nam 6 năm về cải thiện đầu tư kinh doanh, một giáo sư người Nhật nổi tiếng chuyên về kinh tế vĩ mô, đã khuyên Việt Nam phải chú trọng phát triển “sản nghiệp”. Sản nghiệp ở đây được hiểu là DN sản xuất phải có sản phẩm cụ thể, có năng lực cạnh tranh được với quốc tế. Sản phẩm đó của DN phải mang tính “định danh, định vị” cho quốc gia. Thí dụ, Nhật Bản có Sony, Toyota, Hitachi; Hàn Quốc có Samsung, LG.
“Thời điểm đó, kinh tế quốc doanh của Việt Nam vẫn là chủ đạo, nên khi nói đến “sản nghiệp” chúng ta thường chú ý đến DN nhà nước. Vì vậy, chúng ta đã tập trung đầu tư tiền của lẫn chính sách hỗ trợ cho các DN này, xây dựng nên các nhóm ngành tương ứng như thép, xi măng, điện. Điều này là tốt, song thiếu sót là chúng ta lại chưa chú trọng đúng mức đến DN tư nhân.
Thực tế cho thấy, kết quả sau nhiều năm xây dựng các mô hình tập trung DN, các DN nhà nước loay hoay mãi vẫn không xây dựng được sản phẩm có thế mạnh cạnh tranh thực sự, hiệu quả sản xuất “bình bình”, thậm chí thua lỗ. Nhưng ở mô hình tư nhân lại phát triển rất hiệu quả… Nhưng nhìn chung, các sản phẩm đòi hỏi có chất lượng cao, hàm lượng công nghệ lớn, chúng ta vẫn thiếu”- ông Phúc đánh giá.
Theo ông Đậu Anh Tuấn, Phó Tổng Thư ký VCCI, để tháo gỡ những nghịch lý, đưa nền kinh tế trở lại với quỹ đạo tăng trưởng cao, đòi hỏi đặt ra là cơ quan chức năng phải tập trung tháo gỡ các rào cản, “nút thắt” từ thể chế, chính sách đang cản trở sự phát triển.
Đơn cử như cần hạn chế phân bổ nguồn lực theo cơ chế “xin - cho”, ưu tiên thúc đẩy phát triển các thị trường, đặc biệt là các thị trường “đầu vào”, tạo cơ sở để việc phân phối các nguồn lực diễn ra theo đúng nguyên tắc thị trường.
Đối với yếu tố pháp luật, đã đến lúc chuyển trọng tâm ưu tiên từ hoàn thiện xây dựng pháp luật sang thúc đẩy thực thi pháp luật, vì nếu xây dựng pháp luật mà không thực thi tốt, việc xây dựng pháp luật không đạt hiệu quả.
LƯU THỦY