Nhiều cơ sở giáo dục đã đăng tải dự thảo Nghị định về chính sách tiền lương, chế độ phụ cấp, chính sách hỗ trợ, thu hút đối với nhà giáo.
Trong đó, dự thảo nêu rõ chính sách hỗ trợ đối với nhà giáo.
Cụ thể, nhà giáo dạy tiếng Việt cho trẻ em là người dân tộc thiểu số trước khi vào lớp Một và nhà giáo dạy lớp ghép 02 trình độ được hưởng phụ cấp 50% mức tiền lương hiện hưởng của 01 tiết dạy. Nhà giáo dạy lớp ghép 3 trình độ được hưởng phụ cấp 75% mức tiền lương hiện hưởng của 01 tiết dạy.
Bên cạnh đó, nhà giáo đến công tác tại vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi, biên giới, hải đảo và vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn nhưng chưa có nhà ở thì được thuê nhà ở công vụ theo quy định hoặc được cơ quan quản lý, cơ sở giáo dục bảo đảm chỗ ở tập thể. Trường hợp cơ quan quản lý, cơ sở giáo dục không bố trí được chỗ ở tập thể hoặc nhà ở công vụ theo quy định tại khoản 3 Điều này thì nhà giáo được hỗ trợ một khoản tiền không thấp hơn mức tiền thuê nhà ở công vụ theo quy định.
Góp phần thu hút lực lượng giáo viên giỏi, từ đó nâng cao chất lượng giáo dục vùng khó
Trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, thầy Hứa Văn Thiện - Giáo viên Trường Tiểu học Nguyễn Huệ (xã Đắk Wil, tỉnh Lâm Đồng) cho biết, chính sách hỗ trợ về nhà ở công vụ hoặc cấp một khoản tiền để thuê nhà cho giáo viên là hợp lý, bởi vì nhiều thầy cô khi lên công tác ở vùng sâu, vùng xa còn gặp khó khăn về chỗ ở. Tuy nhiên, mức hỗ trợ nên tính theo vùng, phân loại theo các khu vực để đảm bảo tính công bằng và khả năng chi trả thực tế.
Thầy Hứa Văn Thiện - Giáo viên Trường Tiểu học Nguyễn Huệ (xã Đắk Wil, tỉnh Lâm Đồng). Ảnh: website nhà trường
“Bên cạnh đó, một điểm rất đáng chú ý trong dự thảo lần này là đề xuất phụ cấp riêng dành cho giáo viên dạy tiếng Việt cho trẻ em dân tộc thiểu số trước khi vào lớp 1, cũng như giáo viên dạy lớp ghép hai trình độ. Theo tôi, đây là một chính sách cần thiết và có tính nhân văn cao, rất đáng được đưa vào thực tiễn, bởi nó phản ánh đúng đặc thù công việc và những nỗ lực âm thầm của một bộ phận giáo viên đang làm nhiệm vụ đặc biệt quan trọng nhưng thường ít được nhắc tới.
Thực tế cho thấy, việc dạy tiếng Việt cho trẻ em dân tộc thiểu số là một nhiệm vụ không hề đơn giản. Các em có xuất phát điểm rất khác so với học sinh người Kinh. Bởi ngôn ngữ giao tiếp chính trong gia đình và cộng đồng không phải tiếng Việt, văn hóa, tập quán sinh hoạt cũng có nhiều điểm khác biệt, chưa kể đến sự thiếu hụt về điều kiện học tập, tài liệu và môi trường hỗ trợ. Trong bối cảnh đó, để giúp các em hiểu, sử dụng và dần làm chủ tiếng Việt là một thử thách lớn đối với giáo viên. Công việc này đòi hỏi người dạy không chỉ có kỹ năng sư phạm vững vàng, mà còn phải rất kiên trì, linh hoạt và đặc biệt là có lòng yêu nghề, yêu trẻ, hiểu được hoàn cảnh sống và tâm lý của học sinh.
Tương tự, với giáo viên dạy lớp ghép hai trình độ - một mô hình phổ biến ở các trường vùng cao, vùng sâu do điều kiện lớp học và nhân lực hạn chế dẫn đến khối lượng công việc và áp lực cũng tăng lên gấp bội. Thầy cô phải cùng lúc xây dựng kế hoạch, tổ chức dạy học và theo dõi kết quả học tập của hai nhóm trình độ khác nhau trong cùng một tiết học, một không gian. Việc vừa đảm bảo kiến thức, vừa giữ vững sự gắn kết và hào hứng trong lớp học là điều rất khó khăn, đòi hỏi sự sáng tạo, tâm huyết và tinh thần trách nhiệm cao từ phía giáo viên”, thầy Thiện nêu quan điểm.
Thầy Thiện bày tỏ, nếu chính sách phụ cấp 50% mức tiền lương hiện hưởng cho mỗi tiết dạy đối với những giáo viên thực hiện các nhiệm vụ đặc thù này được thông qua và triển khai nghiêm túc sẽ có ý nghĩa rất lớn. Trước hết, chính sách thể hiện sự ghi nhận xứng đáng của Nhà nước đối với công sức, cống hiến của giáo viên. Ngoài ra, đây sẽ là nguồn động viên tinh thần và vật chất thiết thực, giúp giáo viên thêm vững lòng bám lớp, bám trường và tiếp tục gắn bó với học sinh nơi vùng khó. Đồng thời, chính sách này cũng góp phần thu hút thêm lực lượng giáo viên có năng lực và tâm huyết đến với các địa bàn còn thiếu thốn, từ đó đóng góp trực tiếp vào việc nâng cao chất lượng giáo dục cho học sinh dân tộc thiểu số.
“Hiện nay, dù công tác trong điều kiện khó khăn, nhiều giáo viên vẫn luôn cố gắng hoàn thành tốt nhiệm vụ. Những chính sách hỗ trợ, phụ cấp được xây dựng một cách công bằng, linh hoạt và sát thực tế thì sẽ là một đòn bẩy quan trọng để giữ chân giáo viên, nhất là ở vùng khó. Từ đó, tôi cho rằng chính sách tốt không chỉ nâng cao chất lượng giáo dục mà còn đảm bảo sự phát triển giáo dục đồng đều trên cả nước”, thầy Thiện nhận định.
Cùng bàn vấn đề này, thầy Trần Yên Việt - Giáo viên Trường Trung học cơ sở Quang Phong (xã Mường Quàng, tỉnh Nghệ An) cho biết, một trong những điểm được quan tâm nhiều là chính sách hỗ trợ nhà ở cho giáo viên công tác ở vùng khó. Theo đó, giáo viên nếu được điều động hoặc tình nguyện đến công tác ở vùng kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn sẽ được bố trí nhà ở công vụ. Trong trường hợp tại địa phương không còn nhà công vụ trống, thì giáo viên sẽ được hỗ trợ một khoản kinh phí để tự thuê nhà ở ngoài. Đây là một chính sách rất cần thiết nhằm bảo đảm đời sống ổn định cho giáo viên, góp phần giữ chân họ gắn bó lâu dài với môi trường còn nhiều khó khăn.
Tuy nhiên, từ thực tiễn triển khai tại nhiều địa phương, thầy Việt nhận thấy rằng việc bố trí nhà công vụ ở vùng khó đôi khi vẫn chỉ dừng lại ở chủ trương trên văn bản, trong khi khâu thực hiện lại gặp nhiều khó khăn. Nhiều nơi không có đủ quỹ nhà công vụ, nếu có thì cơ sở vật chất lại xuống cấp, không đáp ứng được điều kiện sinh hoạt tối thiểu. Khoản kinh phí hỗ trợ thuê nhà, nếu được cấp, cũng thường không đủ để giáo viên thuê được nơi ở ổn định, an toàn và đảm bảo chất lượng sống cơ bản. Bên cạnh đó, các khoản hỗ trợ đôi khi chậm trễ, thủ tục giải ngân rườm rà, gây khó khăn cho giáo viên trong việc ổn định cuộc sống khi mới nhận công tác.
Do đó, theo thầy Việt, cần điều chỉnh chính sách theo hướng thiết thực và sát với thực tiễn hơn. Cụ thể, nên xem xét nâng mức hỗ trợ thuê nhà, rút gọn quy trình thủ tục hành chính để giáo viên sớm tiếp cận được nguồn hỗ trợ. Đồng thời, việc quy hoạch lại hệ thống nhà công vụ cũng là cần thiết, bảo đảm nhà ở được sử dụng đúng mục đích, đúng đối tượng và đạt hiệu quả cao hơn.
“Ngoài vấn đề nhà ở, chính sách thu hút giáo viên về vùng khó chỉ thực sự phát huy hiệu quả khi đi kèm với chỉ tiêu tuyển dụng phù hợp và chế độ đãi ngộ rõ ràng. Thực tế hiện nay, nhiều địa phương vẫn đang đối mặt với tình trạng thiếu giáo viên, đặc biệt là ở các môn như tiếng Anh khiến việc bố trí đội ngũ gặp nhiều trở ngại và ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng dạy học. Mặc dù có chính sách thu hút, nhưng nếu không gắn với chỉ tiêu tuyển dụng cụ thể thì rất khó để biến chủ trương thành hành động thực tế.
Để giải quyết vấn đề này, theo tôi, Nhà nước cần tăng chỉ tiêu tuyển dụng giáo viên cho các vùng khó khăn, đồng thời xem xét áp dụng các cơ chế linh hoạt hơn, chẳng hạn như hợp đồng dài hạn, tuyển đặc cách đối với những giáo viên đã có kinh nghiệm hoặc có cam kết gắn bó lâu dài. Cùng với đó, cần thiết lập một cơ chế đảm bảo công bằng giữa giáo viên vùng thuận lợi và giáo viên vùng khó khăn thông qua các chính sách ưu tiên như xét nâng lương trước thời hạn, xét thi đua khen thưởng, hoặc tạo điều kiện thuận lợi khi có nhu cầu chuyển công tác sau một thời gian công tác ở vùng khó.
Tóm lại, chính sách thu hút giáo viên về vùng khó khăn là hết sức cần thiết, nhưng cần đi kèm với các điều kiện cụ thể, thiết thực và khả thi. Nếu không có chính sách đồng bộ, thì dù có hỗ trợ thuê nhà hay bố trí công vụ, việc giữ chân giáo viên ở những nơi khó khăn vẫn sẽ là bài toán khó”, thầy Việt nêu quan điểm.
Tuyển dụng theo hình thức tiếp nhận nhà giáo giúp kịp thời bổ sung giáo viên thiếu hụt tại địa phương
Theo thầy Nguyễn Vũ - Giáo viên Trường Tiểu học Atiêng (xã Tây Giang, thành phố Đà Nẵng), dự thảo cũng nêu rõ các trường hợp được hưởng chính sách thu hút, trọng dụng đối với nhà giáo. Đây cũng là những chính sách tốt để động viên, ghi nhận nỗ lực của đội ngũ nhà giáo.
Thầy Nguyễn Vũ - Giáo viên Trường Tiểu học Atiêng (xã Tây Giang, thành phố Đà Nẵng). Ảnh: Nhân vật từng cung cấp
Dự thảo nêu, người tình nguyện làm việc ở cơ sở giáo dục thuộc vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn được tuyển dụng theo hình thức tiếp nhận nhà giáo; Được hưởng các chế độ, chính sách đối với người công tác ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn theo quy định của Chính phủ;
Sau 02 năm kể từ ngày được tiếp nhận và hoàn thành chế độ tập sự, thử việc, nếu được đánh giá, xếp loại hoàn thành tốt nhiệm vụ trở lên thì được nâng bậc lương trước thời hạn; Căn cứ vào cống hiến nhà giáo được xem xét tặng huân chương, huy chương, danh hiệu thi đua, kỷ niệm chương hoặc các hình thức khen thưởng khác theo quy định của pháp luật; không áp dụng tỷ lệ trong xét tặng danh hiệu thi đua hoặc xét khen thưởng.
Người dân tộc thiểu số thuộc danh mục các dân tộc thiểu số rất ít người theo quy định của Thủ tướng Chính phủ tình nguyện làm việc tại cơ sở giáo dục thuộc vùng đồng bào dân tộc thiểu số rất ít người được tuyển dụng theo hình thức tiếp nhận nhà giáo. Sau khi tiếp nhận được hưởng mức phụ cấp là 150% mức lương hiện hưởng kể từ ngày có quyết định tiếp nhận.
Thời gian được hưởng là 05 năm kể từ ngày có quyết định tiếp nhận. Sau 02 năm kể từ ngày được tiếp nhận và hoàn thành chế độ tập sự, thử việc, nếu được đánh giá, xếp loại hoàn thành tốt nhiệm vụ trở lên thì được nâng bậc lương trước thời hạn.
“Tôi hoàn toàn ủng hộ những nội dung được đề xuất trong dự thảo lần này vì đây là những chính sách có tính thực tiễn cao, xuất phát từ đúng những khó khăn, vướng mắc đang tồn tại lâu nay trong công tác thu hút và giữ chân giáo viên ở vùng đặc biệt khó khăn. Việc cho phép tuyển dụng theo hình thức tiếp nhận đối với những người tình nguyện về vùng khó không chỉ giúp rút ngắn quy trình tuyển dụng, giải quyết kịp thời tình trạng thiếu giáo viên tại chỗ, mà còn thể hiện sự linh hoạt và chủ động trong cách tiếp cận nguồn nhân lực giáo dục. Nhiều địa phương hiện nay đang thiếu giáo viên trầm trọng, đặc biệt ở các môn học chuyên biệt như tiếng Anh, Tin học, Âm nhạc và Mỹ thuật. Do đó, những quy định như trong dự thảo sẽ giúp địa phương có thêm căn cứ pháp lý để mạnh dạn thu hút và bổ sung nhân lực cần thiết.
Ngoài ra, quy định nâng bậc lương trước thời hạn là một cách ghi nhận xứng đáng những nỗ lực của giáo viên vùng khó. Ở những nơi điều kiện sống còn nhiều thiếu thốn, áp lực công việc cao và thu nhập còn hạn chế, việc được ghi nhận đúng mức là yếu tố tinh thần rất quan trọng để giáo viên yên tâm cống hiến. Không ít trường hợp giáo viên ở vùng sâu vùng xa, dù rất tâm huyết và có nhiều đóng góp, nhưng lại ít cơ hội được đề xuất danh hiệu thi đua do vướng các quy định về tỷ lệ, chỉ tiêu xét chọn. Việc tháo gỡ rào cản này sẽ giúp chính sách đi vào thực chất, công bằng hơn cho người thực sự xứng đáng.
Đặc biệt, tôi đánh giá rất cao chính sách dành riêng cho giáo viên là người dân tộc thiểu số rất ít người. Việc ưu tiên tiếp nhận và áp dụng mức phụ cấp 150% trong 5 năm đầu không chỉ mang tính khuyến khích mà còn góp phần bảo tồn và phát huy vai trò của đội ngũ giáo viên xuất thân từ chính cộng đồng của mình. Những thầy cô này hiểu rõ phong tục, ngôn ngữ, văn hóa địa phương, nên dễ dàng kết nối với học sinh và phụ huynh, từ đó nâng cao hiệu quả giáo dục. Trong bối cảnh nhiều nơi đang gặp khó khăn trong việc đưa giáo viên từ nơi khác đến, thì việc phát huy lực lượng tại chỗ là giải pháp rất hiệu quả và bền vững”, thầy Vũ nêu quan điểm.
Bên cạnh đó, thầy Vũ cho biết, phụ huynh và học sinh tại đây cũng gặp nhiều khó khăn trong cuộc sống hằng ngày, dẫn đến việc dạy học không chỉ thiếu thốn về cơ sở vật chất mà còn đòi hỏi giáo viên phải có tinh thần trách nhiệm cao, sự kiên trì và tâm huyết lớn hơn rất nhiều so với những nơi thuận lợi.
“Tôi kỳ vọng chính sách hỗ trợ, thu hút trọng dụng nhà giáo sẽ hướng đến đúng đối tượng, giải quyết được bài toán thực tế của ngành giáo dục vùng khó, đồng thời thể hiện sự trân trọng, ghi nhận xứng đáng đối với những cống hiến thầm lặng của giáo viên”, thầy Vũ bày tỏ.
Thu Thủy