Gia tăng vai trò của khu vực tư nhân đối với tăng trưởng kinh tế.
Không thể bay cao với đôi cánh cũ
Sau gần 4 thập niên đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu kinh tế đáng kể, đó là nhờ mô hình dựa vào xuất khẩu, đầu tư nước ngoài và khai thác lao động giá rẻ. Tuy nhiên, mô hình này đang tiệm cận giới hạn bởi hiệu quả sử dụng vốn thấp, năng suất lao động còn cách xa các nước trong khu vực, đóng góp của năng suất nhân tố tổng hợp chưa cao, và nền kinh tế dễ bị tổn thương trước các cú sốc bên ngoài.
Những biến động toàn cầu như đại dịch, xung đột địa chính trị, hay suy thoái kinh tế ở các đối tác lớn, cho thấy rõ mức độ dễ tổn thương của mô hình hiện hành. Trong khi đó, các quốc gia Đông Á như Hàn Quốc, Đài Loan hay Singapore đã vượt qua bẫy thu nhập trung bình nhờ mô hình tăng trưởng dựa trên khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và thể chế hiệu quả.
Thực tế cho thấy, mô hình tăng trưởng nội sinh, tức lấy vốn con người, tri thức và năng lực sáng tạo làm động lực đang được nhiều quốc gia lựa chọn để tạo ra tăng trưởng bền vững. Đây là mô hình từng giúp Hàn Quốc và Đài Loan đạt được tốc độ tăng trưởng cao trong nhiều thập niên, duy trì khả năng chống chịu tốt trước các cuộc khủng hoảng toàn cầu.
Các quốc gia này đầu tư mạnh vào giáo dục, nghiên cứu và phát triển, xây dựng thể chế khuyến khích sáng tạo, tạo môi trường thuận lợi cho doanh nghiệp công nghệ phát triển.
Việt Nam với nền tảng dân số trẻ, khát vọng vươn lên và vị trí địa chính trị thuận lợi, hoàn toàn có thể theo đuổi mô hình tăng trưởng nội sinh như Hàn Quốc và Đài Loan áp dụng. Tuy nhiên, để vận hành hiệu quả, cần có những điều kiện nền tảng mà hiện tại vẫn còn thiếu hụt.
Tư duy mới cho mô hình mới
Một trong những rào cản lớn nhất của Việt Nam là tỷ lệ lao động qua đào tạo còn thấp, kỹ năng số và tư duy sáng tạo chưa phổ biến, năng lực nghiên cứu và phát triển còn hạn chế. Chẳng hạn chi tiêu cho khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo vẫn ở mức thấp, chưa đến 1% GDP, trong khi các nước thành công như Hàn Quốc hay Đài Loan đầu tư gấp nhiều lần con số đó.
Bên cạnh là hệ thống giáo dục chưa thực sự gắn kết với nhu cầu thị trường, chưa tạo ra lực lượng lao động có khả năng thích ứng nhanh với công nghệ mới. Nếu không cải thiện chất lượng nhân lực, mô hình tăng trưởng nội sinh sẽ thiếu nền tảng để phát huy hiệu quả.
Tiếp đến là môi trường thể chế vẫn là điểm nghẽn. Đó là kinh tế thị trường chưa vận hành đồng bộ. Đầu tư công chưa phát huy vai trò dẫn dắt, chưa ưu tiên cho hạ tầng số, hạ tầng xanh và các lĩnh vực có tính lan tỏa cao.
Kinh tế tư nhân dù được khuyến khích nhưng vẫn gặp nhiều rào cản về thể chế, tiếp cận vốn, đất đai và thị trường. Các doanh nghiệp nhỏ và vừa vốn chiếm đa số lại chưa được hỗ trợ đủ để tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu và đổi mới công nghệ.
Một yếu tố khác cần được xem xét là vai trò của đầu tư nước ngoài (FDI) trong mô hình tăng trưởng. FDI đã đóng góp lớn vào tăng trưởng, xuất khẩu và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nhưng hiệu ứng lan tỏa còn hạn chế. Trong khi năng lực hấp thụ công nghệ của doanh nghiệp trong nước yếu, thì liên kết giữa FDI và doanh nghiệp nội địa chưa chặt chẽ, tỷ lệ nội địa hóa thấp.
Do vậy chính sách thu hút FDI thế hệ mới cần tập trung vào công nghệ cao, xanh và số, đồng thời tăng vị thế đàm phán để yêu cầu FDI chuyển giao công nghệ và kết nối chuỗi giá trị. Nếu không cải thiện chất lượng FDI và tăng cường liên kết với khu vực tư nhân trong nước, mô hình tăng trưởng sẽ tiếp tục phụ thuộc vào bên ngoài, thiếu tính tự chủ và dễ bị tổn thương.
Nhưng không nóng vội
TS. Đặng Xuân Thanh, Phó Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam (VASS), cảnh báo: “Việt Nam đang đứng trước ngã rẽ chiến lược nếu không kịp chuyển đổi mô hình tăng trưởng sẽ tụt lại phía sau, bị kẹt lại ở những nấc thang thấp nhất trong chuỗi giá trị toàn cầu, và hậu quả là ngày càng xa rời mục tiêu trở thành quốc gia phát triển vào năm 2045. Nếu lựa chọn đúng mô hình, cải cách quyết liệt và hành động đồng bộ, Việt Nam hoàn toàn có thể vươn lên nhóm quốc gia phát triển vào năm 2045”.
Do vậy câu hỏi không còn “có chuyển đổi hay không”, mà là “chuyển đổi như thế nào, theo mô hình nào, và với quyết tâm ra sao”. Mô hình tăng trưởng nội sinh, kết hợp với định hướng xuất khẩu và cải cách thể chế, có thể là lựa chọn khả thi nhất.
Đây là mô hình vừa tạo ra giá trị gia tăng cao, vừa nâng cao năng suất, đồng thời tăng khả năng chống chịu trước biến động toàn cầu. Tuy nhiên, để mô hình này phát huy hiệu quả, cần có những đột phá chính sách đồng bộ và quyết liệt.
Trước hết, cần tái cấu trúc đầu tư công để ưu tiên cho hạ tầng số, hạ tầng xanh và các lĩnh vực có tính lan tỏa cao. Phát hành các quỹ quốc gia để hỗ trợ doanh nghiệp đổi mới sáng tạo, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Hệ thống giáo dục cần được cải cách để tạo ra lực lượng lao động có kỹ năng số, tư duy sáng tạo và khả năng thích ứng cao. Bên cạnh đó, cần xây dựng đội ngũ công chức theo cơ chế mới, đảm bảo hiệu quả, công bằng và tránh lựa chọn sai người.
Chính sách thu hút FDI phải hướng tới công nghệ tiên tiến, tăng giá trị gia tăng và thúc đẩy liên kết với doanh nghiệp trong nước. Kinh tế tư nhân cần được hỗ trợ thực chất, không chỉ bằng khẩu hiệu, mà bằng thể chế minh bạch, tiếp cận công bằng và khuyến khích cạnh tranh lành mạnh.
Kinh nghiệm thế giới cũng cho thấy phát triển là một quá trình tiến hóa, không thể nhảy vọt bằng ý chí hay một vài chính sách đơn lẻ. Trong số 134 quốc gia thu nhập trung bình vào năm 1990, chỉ có 34 nước bước vào nhóm thu nhập cao tính đến năm 2023.
Trong số đó gần 1/3 được hưởng lợi từ tài nguyên hoặc hội nhập. Hàn Quốc là bài học kinh điển cho chiến lược 3 bước: đầu tư-hấp thụ công nghệ, đổi mới sáng tạo. Ngược lại Brazil đã không thực sự thành công khi đốt cháy giai đoạn, cố gắng đổi mới sáng tạo khi chưa đủ nền tảng hấp thụ công nghệ.
“Những thực tiễn từ thế giới cho thấy, Việt Nam phải đi bằng một chiến lược có thể rút ngắn nhưng không nóng vội” - TS. Đặng Xuân Thanh nhấn mạnh.
Việc lựa chọn mô hình tăng trưởng không thể tách rời khỏi đặc điểm thể chế, văn hóa và địa chính trị của từng quốc gia. Đó là không thể sao chép nguyên mẫu từ các nước thành công, mà cần phù hợp với điều kiện nội tại.
LINH CHI