Chống ngập đô thị và cuộc chạy đua 'mắc kẹt'

Chống ngập đô thị và cuộc chạy đua 'mắc kẹt'
11 giờ trướcBài gốc
Mỗi quyết sách về quy hoạch, mỗi công trình hạ tầng được xây dựng đều tạo ra một "di sản". Theo thời gian, những di sản này hình thành nên hiệu ứng "khóa cứng" (lock-in), khiến đô thị bị lệ thuộc vào một "đường mòn" phát triển mà từ đó rất khó để thay đổi hay bứt phá, dù các giải pháp mới có ưu việt đến đâu.
Các nhà kinh tế gọi hiện tượng này là “phát triển phụ thuộc” – tức là đô thị tiếp tục vận hành theo quán tính của những lựa chọn cũ, dù điều kiện tự nhiên, khí hậu hay nhu cầu đã thay đổi.
Hình ảnh Hà Nội trong trận ngập do ảnh hưởng hoàn lưu bão số 11. Ảnh: Đình Hiếu
Khi quá khứ trở thành ràng buộc của hiện tại
Trong hai thập kỷ qua, Hà Nội và TPHCM đã đầu tư hàng chục nghìn tỷ đồng cho các dự án thoát nước, trạm bơm, hồ điều hòa và kiểm soát triều. Kết quả là nhiều khu vực từng ngập nặng đã được cải thiện đáng kể. Tuy nhiên, tình trạng ngập vẫn xảy ra tại nhiều điểm khác, nhất là khi mưa lớn hoặc triều cường trùng thời điểm.
Nguyên nhân không nằm ở việc đầu tư thiếu, mà ở chỗ đô thị phát triển nhanh hơn năng lực cập nhật của hạ tầng.
Phần lớn công trình được thiết kế dựa trên dữ liệu mưa, triều và phân bố dân cư của hàng chục năm trước. Khi mưa cực đoan gia tăng và khu đô thị mở rộng, những tính toán ban đầu không còn phù hợp. Khu mới được nâng nền cao, trong khi khu cũ trở thành vùng trũng. Dòng chảy tự nhiên bị thay đổi, nước mưa thoát chậm, làm phát sinh điểm ngập mới.
Đây chính là biểu hiện của “phát triển phụ thuộc”: khi đô thị phải tiếp tục vận hành trong giới hạn của hệ thống cũ, dù đã đầu tư rất nhiều để khắc phục.
Càng đầu tư, càng khó thay đổi
Các nhà nghiên cứu của World Bank gọi đây là “bẫy hạ tầng” (infrastructure trap). Khi nguồn vốn lớn được dồn vào một mô hình hạ tầng nhất định, xã hội sẽ bị ràng buộc bởi chính mô hình đó.
Mọi nguồn lực tiếp theo buộc phải dùng để duy trì, sửa chữa, mở rộng cùng kiểu thiết kế, khiến khả năng đổi mới gần như không còn.
Hà Nội là một ví dụ điển hình. Hệ thống thoát nước của thành phố được quy hoạch theo lưu vực sông Tô Lịch – Nhuệ từ nhiều thập kỷ trước. Khi đô thị mở rộng sang phía Tây và phía Nam, mạng lưới này không còn phù hợp. Tuy nhiên, việc xây dựng một hướng thoát nước hoàn toàn mới là quá tốn kém, nên thành phố vẫn phải mở rộng và vận hành trong khuôn khổ cũ.
TPHCM cũng gặp tình huống tương tự. Hệ thống kiểm soát triều đang phát huy tác dụng, nhưng mực nước triều tại khu vực Nhà Bè – Phú An tăng trung bình khoảng 0,2–1,8 cm mỗi năm. Khi mực triều cao hơn thiết kế, công trình cần nâng cấp, nhưng việc thay đổi đồng bộ cả hệ thống lại vượt quá khả năng tài chính.
Những điều chỉnh nhỏ không đủ, mà thay đổi lớn thì quá tốn kém – đó chính là trạng thái “mắc kẹt hạ tầng”.
Chỉ có thể “sống an toàn với nước”
Các chuyên gia của JICA và World Bank đều khẳng định: “Không có thành phố nào trên thế giới có thể hết ngập tuyệt đối”.
Mục tiêu khả thi hơn là giảm thiểu thiệt hại, quản lý ngập ở mức an toàn và tăng khả năng phục hồi. Nhiều nước đã chuyển tư duy từ “chống nước” sang “quản trị nước”.
Thay vì cố gắng thoát nước càng nhanh càng tốt, họ thiết kế đô thị có khả năng giữ nước tạm thời: Công viên trũng, quảng trường thấp, bãi đỗ xe kiêm hồ điều hòa, đường lát vật liệu thấm nước.
Trung tâm tỉnh Thái Nguyên hứng chịu trận lụt lịch sử vào tháng 10/2025. Ảnh: Việt Hùng
Hệ thống cảm biến và bản đồ số giúp theo dõi mưa – triều – dòng chảy theo thời gian thực, để điều hành trước khi ngập xảy ra.
Tại Việt Nam, TPHCM đã có Trung tâm điều hành đô thị thông minh (IOC) với chức năng giám sát và phân tích dữ liệu; Hà Nội, Đà Nẵng, Cần Thơ đang triển khai hệ thống quan trắc mưa và cảnh báo ngập. Khi những dữ liệu này được tích hợp trên nền GIS và mô hình thủy văn, các đô thị có thể chuyển từ “chống ngập” sang “chủ động điều tiết”.
Bài học cho các địa phương khác
Các đô thị đang phát triển, đặc biệt là khu vực miền núi và trung du, có thể rút ra những kinh nghiệm quan trọng từ các thành phố đi trước.
Thứ nhất, phải hiểu dòng nước trước khi đầu tư. Cần có bản đồ địa hình số (DEM) và mô hình lưu vực để biết hướng chảy, vùng trũng, điểm tập trung nước.
Thứ hai, thiết kế hạ tầng cần linh hoạt, không nên chỉ dựa vào cống, đê, trạm bơm. Cần dành không gian cho nước, tận dụng hồ, công viên, vùng trữ tạm.
Thứ ba, quản trị dựa trên dữ liệu và phản hồi nhanh. Mỗi mùa mưa cần được coi là một lần kiểm nghiệm, để hiệu chỉnh thiết kế và vận hành.
Thứ tư, khuyến khích người dân tham gia giám sát ngập và phản ánh hiện trường, giúp chính quyền có thông tin kịp thời, thực tế hơn.
Đối với đô thị miền núi, việc “sống an toàn với nước” có ý nghĩa đặc biệt. Địa hình dốc, suối nhỏ, khả năng thoát nước nhanh nhưng dễ gây ngập đột ngột. Giữ hành lang thoát lũ tự nhiên, không san lấp suối, và bố trí công trình hạ tầng mềm theo cụm dân cư sẽ giúp giảm thiểu rủi ro mà không tốn quá nhiều chi phí.
Nhiều giải pháp được TPHCM triển khai nhưng chưa giải quyết được tình trạng ngập lụt. Ảnh: Như Sỹ
Nhìn lại, có thể nói các chương trình chống ngập ở Hà Nội và TPHCM đã thành công trong phạm vi thiết kế ban đầu, nhưng điều kiện đô thị và khí hậu đã vượt xa giả định ban đầu. Đó không phải thất bại, mà là giới hạn tự nhiên của một mô hình cần được đổi mới. Những gì ta đã làm trước đây giúp thành phố phát triển, nhưng cũng tạo ra “đường mòn” khiến việc thích ứng trở nên chậm chạp.
Vấn đề không phải là ngừng đầu tư, mà là đầu tư theo cách mở đường cho sự linh hoạt và khả năng học hỏi của hệ thống. Phát triển phụ thuộc là lời nhắc rằng: tương lai không nên bị trói bởi những gì đã từng hiệu quả trong quá khứ. Nếu biết rẽ đúng lúc, đô thị sẽ không bị mắc kẹt trong chính con đường mình đã chọn.
An Hải
Nguồn VietnamNet : https://vietnamnet.vn/chong-ngap-do-thi-va-cuoc-chay-dua-mac-ket-2452720.html