Chuẩn hóa quy trình cấp C/O, hỗ trợ doanh nghiệp tận dụng FTA

Chuẩn hóa quy trình cấp C/O, hỗ trợ doanh nghiệp tận dụng FTA
7 giờ trướcBài gốc
Nhằm mục tiêu rút ngắn khoảng cách từ ký kết tới thực tiễn thực hiện các cam kết hiệp định thương mại tự do (FTA), việc triển khai xây dựng hệ sinh thái hỗ trợ doanh nghiệp tận dụng FTA đang hết sức quan trọng.
Ông Phạm Ngọc Thành - Thành viên Hiệp hội rau quả Việt Nam - đã có những chia sẻ về hệ sinh thái hỗ trợ doanh nghiệp tận dụng FTA, gắn với chuẩn hóa vùng nguyên liệu, góp phần nâng cao năng lực đáp ứng tiêu chuẩn và tăng cường kết nối thị trường.
Kim ngạch xuất khẩu của ngành rau quả đã có sự chuyển biến vượt bậc. Ảnh minh họa
- Thưa ông, việc xây dựng hệ sinh thái hỗ trợ doanh nghiệp tận dụng FTA sẽ có những tác động tích cực như thế nào tới các doanh nghiệp nhỏ và vừa lĩnh vực rau quả Việt Nam?
Ông Phạm Ngọc Thành: Việc xây dựng hệ sinh thái hỗ trợ doanh nghiệp tận dụng FTA là một hướng đi rất phù hợp, đặc biệt trong bối cảnh ngành nông nghiệp Việt Nam nói chung đang có bước phát triển mạnh mẽ. Tuy nhiên, để mô hình này phát huy hiệu quả đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ, cần bảo đảm một số yếu tố:
Thứ nhất, hệ sinh thái phải đơn giản hóa việc tiếp cận thông tin. Các thông tin về thị trường, tiêu chuẩn và ưu đãi FTA cần được cung cấp một cách dễ hiểu, đơn giản, có ví dụ thực tiễn cụ thể để doanh nghiệp vừa và nhỏ dễ dàng tiếp cận.
Thứ hai, là tăng cường các dịch vụ hỗ trợ chuyên sâu, bao gồm hỗ trợ doanh nghiệp về kiểm soát chất lượng, xây dựng mã số vùng trồng, chứng nhận xuất xứ hàng hóa, truy xuất nguồn gốc và các tiêu chuẩn bền vững khác, ví dụ như chuyển đổi xanh nhằm đáp ứng yêu cầu của các thị trường khó tính như thị trường châu Âu.
Thứ ba, kết nối cung ứng là một yếu tố rất quan trọng, đó là thúc đẩy kết nối giữa các doanh nghiệp chế biến, doanh nghiệp xuất khẩu, doanh nghiệp logistics và các hợp tác xã của nông dân, tạo thành một khối liên kết bền vững, tạo ra các sản phẩm thống nhất, bảo đảm tiêu chuẩn chất lượng và có quy mô đáp ứng yêu cầu của các thị trường FTA.
- Vậy theo ông, để ngành rau quả có thể tham gia sâu hơn vào các hệ sinh thái tận dụng FTA, cần tập trung hỗ trợ vào những yếu tố trọng tâm nào?
Ông Phạm Ngọc Thành: Chúng tôi cho rằng, đối với ngành rau quả cần tập trung vào 2 nhóm hỗ trợ trọng tâm, cụ thể:
Nhóm thứ nhất là hỗ trợ thông tin thị trường và các yêu cầu kỹ thuật. Doanh nghiệp với quy mô vừa và nhỏ hiện còn thiếu dữ liệu chính xác, cập nhật về thông tin thị trường như nhu cầu, thị hiếu khách hàng, cũng như các tiêu chuẩn về vệ sinh an toàn thực phẩm và các rào cản phi thuế quan. Vì thế, việc xây dựng các cổng thông tin chuyên ngành, cơ sở dữ liệu mở, bản đồ vùng nguyên liệu, cũng như danh mục các tiêu chuẩn của từng thị trường sẽ giúp các doanh nghiệp chế biến rau quả tiếp cận thông tin và ra quyết định nhanh hơn trong đầu tư sản xuất và xuất khẩu.
Nhóm thứ hai là cần hỗ trợ nâng cao năng lực kỹ thuật và phát triển vùng nguyên liệu đạt chuẩn, đạt quy mô để bảo đảm yêu cầu của thị trường. Theo đó, hiệp hội kiến nghị cơ quan quản lý đẩy mạnh hướng dẫn doanh nghiệp và các hợp tác xã thiết lập mã số vùng trồng, cơ sở đóng gói, hoàn thiện hệ thống truy xuất nguồn gốc, các chứng nhận tiêu chuẩn của thị trường.
Ông Phạm Ngọc Thành - Thành viên Hiệp hội Rau quả Việt Nam. Ảnh: Diệu Anh
Bên cạnh đó, đối với việc tận dụng các ưu đãi từ FTA, vấn đề then chốt hiện nay là chứng nhận xuất xứ và tuân thủ các tiêu chuẩn chất lượng. Để làm tốt nội dung này, cần triển khai một số giải pháp.
Thứ nhất, từng bước hướng tới việc chuẩn hóa quy trình cấp C/O cho doanh nghiệp theo hướng minh bạch, số hóa và giảm thời gian xử lý hồ sơ. Thứ hai, đề nghị cơ quan chức năng đẩy nhanh triển khai cơ chế tự chứng nhận xuất xứ cho doanh nghiệp đủ điều kiện, giúp doanh nghiệp chủ động hơn trong đàm phán và giao hàng. Thứ ba, tăng cường vai trò của các hiệp hội trong việc hướng dẫn, thẩm định và kết nối chuyên gia tư vấn cho doanh nghiệp. Thứ tư, đề nghị Chính phủ có chính sách hỗ trợ tài chính và đào tạo nhân lực cho doanh nghiệp chuyển đổi sang các mô hình sản xuất xanh theo các tiêu chuẩn organic châu Âu.
Ngoài ra, để thu hẹp khoảng cách giữa ký kết và tận dụng các FTA, đặc biệt đối với ngành rau quả, chúng tôi kiến nghị Chính phủ và Bộ Công Thương xem xét một số định hướng trọng tâm: Xây dựng cơ chế hỗ trợ thực thi FTA theo từng ngành hàng riêng là cần thiết, thay vì hỗ trợ dàn trải. Ngành rau quả có đặc thù về tiêu chuẩn chất lượng, kiểm dịch và an toàn vệ sinh thực phẩm, do đó cần có các bộ hướng dẫn kỹ thuật chuyên sâu cho từng nhóm sản phẩm, kèm theo ví dụ, biểu mẫu và hồ sơ.
Cùng với đó là cần thiết lập các quỹ hỗ trợ chuyển đổi tiêu chuẩn chất lượng và xanh hóa trong chuỗi cung ứng. Việc chuyển đổi sang các tiêu chuẩn xanh của thị trường châu Âu sẽ mang lại giá trị thiết thực cho sản phẩm Việt Nam. Tuy nhiên, quá trình chuyển đổi này phát sinh chi phí cao, nếu không có các ưu đãi tín dụng và hỗ trợ kỹ thuật từ cơ quan quản lý, doanh nghiệp sẽ gặp nhiều khó khăn trong việc tham gia.
- Nhằm thực hiện đặt mục tiêu xuất khẩu đến năm 2030 là 15 tỷ USD của ngành rau quả, cần thêm những hỗ trợ gì từ cơ quan quản lý nhà nước, thưa ông?
Ông Phạm Ngọc Thành: Trong 5 năm trở lại đây, sau khi ký Hiệp định EVFTA, kim ngạch xuất khẩu của ngành rau quả đã có sự chuyển biến vượt bậc và đạt những con số tăng trưởng rất ấn tượng. Kế hoạch từ nay đến cuối năm 2025 sẽ đạt khoảng 8 tỷ USD. Do vậy, tôi cho rằng mục tiêu đến năm 2030 đạt kim ngạch 15 tỷ USD là hoàn toàn có thể đạt được và thậm chí có thể đạt sớm hơn.
Để đạt mục tiêu trên, ngành rau quả cần tiếp tục được hỗ trợ về công tác phát triển thị trường. Thời gian qua, Bộ Công Thương đã tạo điều kiện, hỗ trợ rất nhiều cho các hiệp hội ngành hàng và doanh nghiệp. Hàng năm, Bộ tổ chức các chương trình xúc tiến thương mại, đặc biệt là hỗ trợ doanh nghiệp tham gia các hội chợ chuyên ngành. Theo tôi, đây là hoạt động rất hiệu quả và cần tiếp tục được đẩy mạnh, mở rộng quy mô để hỗ trợ nhiều doanh nghiệp hơn. Ngoài ra, hiệp hội nhận thấy cần tận dụng chuyển đổi số để quảng bá hình ảnh, thương hiệu trên các nền tảng thương mại điện tử. Chúng tôi rất mong Bộ Công Thương và Chính phủ quan tâm đề án xây dựng thương hiệu quốc gia.
Bên cạnh đó là hỗ trợ phát triển công nghiệp chế biến. Doanh nghiệp vừa và nhỏ hiện gặp khó khăn trong việc tiếp cận công nghệ và thiết bị hiện đại đáp ứng nhu cầu xuất khẩu, trong khi nguồn lực còn hạn chế. Vì vậy, đề nghị Chính phủ quan tâm hỗ trợ tài chính, như hỗ trợ lãi suất vay hoặc kéo dài thời gian vay, để doanh nghiệp có điều kiện đầu tư vào sản xuất. Sản xuất, chế biến nông nghiệp có lợi nhuận không cao như các ngành khác nhưng lại vất vả hơn, do đó rất cần chính sách hỗ trợ.
Tiếp đó là phát triển vùng nguyên liệu, đây là vấn đề mà hầu hết các doanh nghiệp trong Hiệp hội Rau quả đang rất trăn trở. Khi đã có thị trường, có máy móc, thiết bị, công nghệ, việc bảo đảm vùng nguyên liệu ổn định cho sản xuất sẽ là yếu tố then chốt. Mỗi nhà máy sản xuất không thể chỉ dựa vào vùng nguyên liệu của một tỉnh mà cần có sự liên kết vùng để đáp ứng nhu cầu. Nếu xây dựng được vùng nguyên liệu quy mô đủ lớn, bảo đảm cho nhà máy hoạt động sản xuất quanh năm hiệu quả sản xuất sẽ được nâng cao.
- Xin cảm ơn ông!
Ông Phạm Ngọc Thành cho hay, trong thời gian qua, Hiệp hội Rau quả Việt Nam đã tích cực tham gia, chủ động phối hợp cùng với Bộ Công Thương cũng như các cơ quan chức năng trong việc tham gia xây dựng Đề án hệ sinh thái hỗ trợ doanh nghiệp tận dụng FTA. Các nhóm chuyên gia cũng đã đuợc thành lập nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp tiếp cận các quy tắc xuất xứ, tiếp cận thị trường cũng như các quy chuẩn cần thiết.
Bảo Thoa - Diệu Anh
Nguồn Công Thương : https://congthuong.vn/chuan-hoa-quy-trinh-cap-c-o-ho-tro-doanh-nghiep-tan-dung-fta-435041.html