TS Cù Ngọc Phương và sinh viên Trường Đại học Nguyễn Tất Thành. Ảnh: NVCC
Những đề xuất đổi mới lần này cho thấy định hướng chuyển dịch quan trọng: tư duy từ quy phạm sang phát triển, tiếp cận từ hành chính sang năng lực, mô hình đánh giá từ tĩnh sang nuôi dưỡng và thúc đẩy sự trưởng thành học thuật của giảng viên.
Khắc phục hệ thống đánh giá
Hiện nay, khi nhắc đến “chuẩn” của giảng viên đại học, phần lớn các cơ sở vẫn tham chiếu theo tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp quy định tại Thông tư 40/2020/TT-BGDĐT và sửa đổi tại Thông tư 04/2022/TT-BGDĐT.
PGS.TS Trần Thành Nam - Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Giáo dục (Đại học Quốc gia Hà Nội) nhận định, các quy định hiện hành chủ yếu thiên về yêu cầu mang tính hành chính như văn bằng, chứng chỉ, hạng chức danh, trong khi chưa đánh giá được hiệu quả thực sự trong giảng dạy và nghiên cứu.
Một số tiêu chí còn mang tính hình thức, chưa phản ánh đúng năng lực sư phạm hay mức độ tác động đến chất lượng học tập của sinh viên. Chẳng hạn, yêu cầu giảng viên phải có “chứng chỉ bồi dưỡng chuẩn nghề nghiệp” đôi khi dẫn tới tình trạng chạy theo thủ tục để đủ điều kiện, thay vì tập trung nâng cao năng lực giảng dạy một cách thực chất.
Quy định hiện hành cũng chưa hình thành được cơ chế đánh giá tác động và chất lượng giảng dạy, nghiên cứu. Cụ thể, thiếu vắng các tiêu chí định lượng hoặc định tính phản ánh hiệu quả thực tế như mức độ tiến bộ của người học, phản hồi từ sinh viên, việc đổi mới phương pháp sư phạm, hay tác động của hoạt động nghiên cứu đối với thực tiễn và cộng đồng.
Việc đánh giá giảng viên hiện chủ yếu dựa trên số lượng đầu việc và sản phẩm đầu ra (bài báo, đề tài nghiên cứu...), trong khi chưa có thước đo rõ ràng về chất lượng và giá trị ảnh hưởng. Điều này dễ dẫn tới “bệnh thành tích”, khi giảng viên nặng về hoàn thành chỉ tiêu thay vì chú trọng nâng cao chất lượng giáo dục một cách thực chất.
Một hạn chế khác, theo PGS.TS Trần Thành Nam, là việc chuẩn nghề nghiệp hiện chưa cập nhật đầy đủ yêu cầu chuyển đổi số. Dự thảo Thông tư mới đã bổ sung tiêu chí “năng lực ứng dụng công nghệ thông tin và tiến bộ khoa học kỹ thuật”, coi đây là yêu cầu bắt buộc.
Tuy vậy, nội dung vẫn cần cụ thể hơn, chẳng hạn năng lực thiết kế lớp học trực tuyến, sử dụng AI trong hỗ trợ giảng dạy, hay phân tích dữ liệu học tập của sinh viên. Hiện chuẩn mới dừng ở mức yêu cầu “biết sử dụng công nghệ thông tin”, chưa định hướng rõ ràng về chuyển đổi số trong hoạt động giảng dạy và nghiên cứu, cũng như chưa cập nhật yêu cầu về năng lực làm chủ AI của giảng viên.
Trong bối cảnh trí tuệ nhân tạo ngày càng phổ biến, năng lực số trở thành yếu tố sống còn để giảng viên làm chủ công nghệ, đổi mới phương pháp và nâng cao chất lượng đào tạo; vì vậy, chuẩn nghề nghiệp cần nhấn mạnh hơn năng lực này.
Ngoài ra, theo PGS.TS Trần Thành Nam, là quy định hiện hành vẫn chưa khuyến khích mạnh mẽ vai trò hội nhập quốc tế và đóng góp xã hội của giảng viên. Dự thảo Thông tư đã bổ sung nhiệm vụ “phục vụ cộng đồng” đối với tất cả chức danh, song tiêu chí đánh giá vẫn còn chung chung, thiếu cơ chế định lượng cụ thể như tham gia dự án cộng đồng, tư vấn chính sách, chuyển giao tri thức cho doanh nghiệp…
Đối với hợp tác quốc tế, ngoài yêu cầu về năng lực ngoại ngữ, hiện chưa có tiêu chí đo lường mức độ tham gia của giảng viên vào các mạng lưới học thuật toàn cầu, nghiên cứu chung với đối tác nước ngoài hay các chương trình trao đổi giảng viên. Điều này chưa tương xứng với định hướng hội nhập và nâng cao chất lượng giáo dục đại học trong giai đoạn mới.
“Chuẩn nghề nghiệp cần được điều chỉnh theo hướng thúc đẩy giảng viên chủ động hội nhập, qua đó học hỏi kinh nghiệm quốc tế và góp phần nâng cao vị thế giáo dục đại học Việt Nam”, PGS.TS Trần Thành Nam đề xuất.
Cán bộ, giảng viên chia sẻ về công bố quốc tế và các vấn đề liêm chính học thuật tại hội thảo do Trường Đại học Mở Hà Nội tổ chức. Ảnh: Minh Phong
Thiết lập chuẩn nghề nghiệp
Đề xuất xây dựng chuẩn nghề nghiệp giảng viên, TS Cù Ngọc Phương - Trưởng khoa Lý luận Chính trị, Trường Đại học Nguyễn Tất Thành - nhấn mạnh 6 nhóm nội dung trọng tâm gồm: tái cấu trúc chuẩn nghề nghiệp theo tiếp cận khung năng lực cốt lõi; thiết lập chuẩn dựa trên lộ trình phát triển học thuật; gắn chuẩn nghề nghiệp với triết lý giáo dục nhân văn - khai phóng; xem năng lực số là thành tố quan trọng của nghề nghiệp giảng viên trong bối cảnh hiện nay; tăng cường tiêu chí hội nhập quốc tế và kết nối doanh nghiệp; kiến tạo văn hóa đánh giá dựa trên năng lực và phẩm chất nghề nghiệp.
Theo TS Cù Ngọc Phương, việc xây dựng chuẩn nghề nghiệp trong giáo dục đại học đòi hỏi sự chuyển dịch chiến lược từ tư duy quản lý hành chính sang cách tiếp cận phát triển năng lực thực tiễn. Thay vì chỉ liệt kê nhiệm vụ mang tính liệt kê, chuẩn dựa trên năng lực sẽ làm nổi bật bản sắc học thuật của giảng viên - chủ thể gắn với sứ mệnh kiến tạo tri thức, đổi mới sáng tạo và phục vụ xã hội.
Trên tinh thần giáo dục khai phóng và xu thế giáo dục hiện đại, cấu trúc chuẩn nghề nghiệp cần được thiết kế xoay quanh 5 năng lực then chốt: năng lực sư phạm đại học, năng lực nghiên cứu khoa học, năng lực phục vụ cộng đồng, năng lực hội nhập quốc tế và năng lực chuyển đổi số. Khi được hệ thống hóa, bộ chuẩn không chỉ là công cụ đánh giá, kiểm định chất lượng mà còn là kim chỉ nam định hướng phát triển nghề nghiệp bền vững cho đội ngũ giảng viên.
Nhấn mạnh việc thiết lập chuẩn nghề nghiệp trên cơ sở lộ trình phát triển học thuật, TS Cù Ngọc Phương cho rằng hệ thống chuẩn cần được xây dựng như một khung tham chiếu phát triển liên tục, phản ánh tiến trình trưởng thành nghề nghiệp của giảng viên theo từng giai đoạn công tác. Thay vì chỉ mô tả năng lực tại một thời điểm cố định, bộ chuẩn phải thể hiện được độ mở và tính vận động, giúp giảng viên xác định vị trí hiện tại, đồng thời định hướng các bước tiến tiếp theo trong hành trình nghề nghiệp.
Cách tiếp cận này cho phép ghi nhận sự đa dạng về vai trò và đóng góp ở mỗi cấp độ, đồng thời tạo động lực để giảng viên xây dựng mục tiêu dài hạn, bồi đắp bản sắc học thuật và phát triển năng lực theo chiều sâu. Lộ trình ấy thể hiện tính biện chứng của quá trình phát triển nghề nghiệp, qua đó biến chuẩn nghề nghiệp từ công cụ đánh giá đơn thuần thành kim chỉ nam cho sự học tập suốt đời, phù hợp với đặc trưng biến đổi không ngừng của tri thức, khoa học và yêu cầu mới của giáo dục đại học.
Về yêu cầu gắn kết chuẩn nghề nghiệp với triết lý giáo dục nhân văn và khai phóng, TS Cù Ngọc Phương nhận định chuẩn nghề nghiệp giảng viên đại học sẽ trở nên toàn diện và có chiều sâu hơn khi được đặt trong mối quan hệ với các giá trị cốt lõi của giáo dục hiện đại. Những giá trị như tôn trọng phẩm giá con người, tự do học thuật, tư duy phản biện, tinh thần đối thoại và hợp tác không chỉ là yêu cầu đạo đức, mà còn là nền tảng hình thành văn hóa học thuật lành mạnh.
Do đó, bên cạnh các tiêu chí về chuyên môn, chuẩn nghề nghiệp cần tích hợp thêm yêu cầu liên quan đến đạo đức học thuật, trách nhiệm xã hội và tinh thần khai minh - thể hiện ở khả năng thúc đẩy nhận thức độc lập, nuôi dưỡng tinh thần học hỏi suốt đời và khuyến khích mở rộng tri thức. Các tiêu chí này góp phần khẳng định vai trò của giảng viên không chỉ là người truyền đạt kiến thức, mà còn là chủ thể văn hóa, người dẫn dắt đời sống trí tuệ và nhân tố quan trọng trong việc kiến tạo môi trường giáo dục nhân văn, khai phóng.
“Kiến tạo bộ chuẩn trong giai đoạn hiện nay đòi hỏi sự kết hợp hài hòa giữa yếu tố chuyên môn, giá trị nhân văn - khai phóng, yêu cầu hội nhập và năng lực thích ứng với đổi mới công nghệ. Một bộ chuẩn được thiết kế trên nền tảng đó sẽ không giản lược vai trò của giảng viên vào những nhiệm vụ kỹ thuật, mà khẳng định họ như chủ thể sáng tạo tri thức, người kiến tạo văn hóa học thuật và là tác nhân quan trọng của sự phát triển xã hội.
Đồng thời, khi chuẩn nghề nghiệp đi đôi với cơ chế đánh giá khoa học, nhân văn và khuyến khích đổi mới, nó có thể trở thành động lực thúc đẩy giảng viên không ngừng nâng cao chất lượng giảng dạy, mở rộng năng lực nghiên cứu và gia tăng tác động đối với cộng đồng. Qua đó góp phần nuôi dưỡng hệ sinh thái đại học dựa trên tri thức, liêm chính học thuật và tinh thần trách nhiệm xã hội,” TS Cù Ngọc Phương nhấn mạnh.
PGS.TS Trần Thành Nam chia sẻ với sinh viên về kỹ năng cần thiết của người lao động thế kỷ 21. Ảnh: NVCC
Đa chiều - linh hoạt - thực chất
ThS Đỗ Ngọc Anh - giảng viên ngành Công nghệ thông tin, Trường Đại học Mở Hà Nội - nhận định Thông tư 40/2020/TT-BGDĐT (sửa đổi bởi Thông tư 04/2022/TT-BGDĐT) về cơ bản đã hoàn thành tốt “sứ mệnh” trong giai đoạn trước. Tuy nhiên, trong bối cảnh mới và trước những yêu cầu của giáo dục đại học hiện đại, việc xây dựng bộ Chuẩn nghề nghiệp giảng viên cần đi theo hướng “đa chiều - linh hoạt - thực chất”.
Theo ThS Đỗ Ngọc Anh, thay vì áp dụng một bộ tiêu chuẩn cứng, nên cho phép giảng viên lựa chọn định hướng phát triển theo từng giai đoạn 3-5 năm, chẳng hạn: tăng tỷ trọng yêu cầu về công bố quốc tế và giảm giờ giảng; tập trung nâng cao chất lượng bài giảng, đổi mới phương pháp, biên soạn giáo trình thay vì chú trọng số lượng công bố khoa học; hoặc ưu tiên hoạt động chuyển giao công nghệ, tư vấn doanh nghiệp và triển khai các dự án thực tế.
Bên cạnh đó, khung năng lực số cần được đưa vào hệ thống chuẩn với cấu trúc phân cấp, ví dụ: biết sử dụng công cụ LMS/E-learning cơ bản; có khả năng sản xuất học liệu số, video bài giảng; có năng lực ứng dụng AI, Big Data để cá nhân hóa việc học cho sinh viên.
“Là một giảng viên, tôi mong muốn bộ chuẩn nghề nghiệp hoạt động như một bản đồ định hướng, đủ linh hoạt để mỗi giảng viên phát huy thế mạnh, đóng góp hiệu quả vào sự phát triển của giáo dục nước nhà,” ThS Đỗ Ngọc Anh chia sẻ.
Cũng nhấn mạnh yếu tố linh hoạt, PGS.TS Trần Thành Nam cho rằng thay vì áp dụng một bộ tiêu chuẩn cứng nhắc cho mọi trường hợp, bộ chuẩn nghề nghiệp nên được thiết kế theo khung mở với các nhóm tiêu chí chính, cho phép nhiều con đường khác nhau để giảng viên đạt chuẩn. Khung chuẩn có thể bao quát các mảng năng lực cốt lõi gồm: năng lực giảng dạy và hỗ trợ người học; năng lực nghiên cứu, sáng tạo tri thức; năng lực hoạt động chuyên môn, phục vụ cộng đồng; năng lực số và hội nhập quốc tế.
Theo đó, mỗi giảng viên có thể đáp ứng chuẩn nghề nghiệp thông qua các tổ hợp thành tích khác nhau ở các mảng năng lực, miễn là bảo đảm mục tiêu chất lượng chung. Cách tiếp cận này không chỉ giúp đánh giá toàn diện hơn mà còn ghi nhận đúng thế mạnh của từng cá nhân, phù hợp với đặc thù của các mô hình đại học tinh hoa nghiên cứu hay đại học thực hành - ứng dụng.
Bên cạnh các tiêu chí định lượng, chuyên gia đề xuất bổ sung phương thức đánh giá định tính dựa trên minh chứng tác động thực tế. Một trong những gợi ý là xây dựng hồ sơ năng lực giảng viên, trong đó giảng viên tự báo cáo kết quả đổi mới chuyên môn kèm minh chứng như phản hồi người học, sản phẩm nghiên cứu ứng dụng hay thư giới thiệu từ đối tác.
Đồng thời, cần thiết lập cơ chế lấy ý kiến phản hồi từ sinh viên và đồng nghiệp để đánh giá hiệu quả giảng dạy. Mô hình đánh giá đa nguồn - tự đánh giá, đánh giá từ sinh viên, đồng nghiệp và đơn vị quản lý - sẽ phản ánh khách quan năng lực thực chất, giảm áp lực chạy theo tiêu chí hình thức.
Ngoài ra, PGS.TS Trần Thành Nam cũng đưa ra một số đề xuất khác như: đẩy mạnh ứng dụng AI và công nghệ trong theo dõi, đánh giá hiệu suất làm việc; bổ sung hệ thống tín chỉ nghề nghiệp vi mô (micro-credentials) thay cho yêu cầu chứng chỉ bồi dưỡng mang tính hình thức; xây dựng bảng năng lực phân theo cấp độ phát triển nghề nghiệp và định hướng chuyên môn; đồng thời nâng yêu cầu về chất lượng nghiên cứu nhằm hạn chế tình trạng chạy theo số lượng bài báo.
Đổi mới chuẩn nghề nghiệp giảng viên không chỉ đơn thuần là điều chỉnh một văn bản quy định, mà là bước đi chiến lược nhằm tái cân bằng giữa quản trị và học thuật; hướng tới xây dựng đội ngũ nhà giáo có năng lực toàn diện, tầm nhìn học thuật và khả năng đồng hành cùng sự phát triển của giáo dục đại học trong bối cảnh mới. Đây cũng là nền tảng giúp các cơ sở giáo dục đại học phát triển bền vững, tăng cường hội nhập quốc tế và đóng góp hiệu quả cho sự phát triển đất nước. - TS Cù Ngọc Phương
Hải Bình