Để NĐT có cảm nhận rõ hơn về vấn đề này, ĐTTC đã có cuộc trao đổi với ông NGUYỄN VIỆT ĐỨC, Giám đốc Kinh doanh số VPBankS.
PHÓNG VIÊN: - Ông đánh giá thế nào về những tác động từ địa chính trị thế giới đối với thị trường chứng khoán (TTCK)?
Ông NGUYỄN VIỆT ĐỨC: - Theo thống kê, các sự kiện địa chính trị không ảnh hưởng quá nhiều tới TTCK. Trong những căng thẳng địa chính trị 50 năm trở lại đây, nếu chỉ dừng ở mức xung đột, tác động đến thị TTCK chỉ kéo dài 1-2 phiên. Cách đây vài tháng, ảnh hưởng từ sự kiện Israel và lực lượng Houthi tới thị trường chỉ kéo dài trong 1 phiên.
Nếu xung đột lên tầm chiến tranh nhưng vẫn được gói gọn trong một khu vực, mức độ ảnh hưởng cũng không quá nhiều. Đây là lý do TTCK phục hồi trở lại trong những phiên gần đây, bởi NĐT cho rằng xung đột giữa Israel và Iran sẽ chỉ gói gọn tại khu vực Trung Đông. Ảnh hưởng chỉ nằm ở giá dầu, không tác động quá lớn đến toàn thế giới.
Một trường hợp khác nghiêm trọng hơn, đó là các cuộc chiến tranh có sự tham gia của nước Mỹ. Khi đó, thị trường có thể điều chỉnh lâu, kéo dài tới 3 tháng, chẳng hạn như năm 2001 sau cuộc tấn công vào tòa tháp đôi, hay Iraq năm 1992. Những cuộc chiến này khiến thị trường điều chỉnh khoảng 10-11% và phải mất 70 ngày mới tạo đáy.
Quay lại tình hình căng thẳng Trung Đông, tác động của cuộc chiến này đến thị trường thế giới cũng chỉ tập trung vào lĩnh vực năng lượng. Hiện nay, giá dầu cũng chỉ ở mức khoảng trên 70 USD/thùng, thấp hơn so với trung bình năm 2024. Chỉ khi nào giá dầu vẫn nằm trong khoảng 70-80 USD/thùng, ảnh hưởng của xung đột này đã kết thúc.
Trong trường hợp xấu hơn, nếu xảy ra cấm vận thì tác động sẽ lớn hơn. Nhìn chung, mặc dù rủi ro chiến tranh nghe có vẻ căng thẳng, nhưng TTCK sẽ vượt qua những đợt điều chỉnh này.
- Theo ông, bối cảnh năm 2025 có giống với 2022 khi xung đột Nga - Ukraine nổ ra hay không?
- Năm 2022, khi xung đột Nga - Ukraine nổ ra, lạm phát tại Mỹ rất cao, một phần do giá dầu tăng, nhưng phần lớn đến từ việc bơm tiền hỗ trợ nền kinh tế sau Covid-19. Yếu tố về lạm phát mới là nguyên nhân chính khiến cho thị trường giảm mạnh vào năm 2022.
Những giai đoạn TTCK giảm mạnh nhất thường không liên quan đến chiến tranh, mà thay vào đó là do yếu tố vĩ mô, chẳng hạn như năm 2008 khủng hoảng nợ tại Mỹ, hay năm 2022 khủng hoảng trái phiếu tại Việt Nam. Những yếu tố vĩ mô, bong bóng tài sản, kinh tế… mới có thể khiến thị trường xẹp mạnh, còn chiến tranh chỉ là yếu tố thêm thắt, có thể trùng hợp với biến động vĩ mô và ít gây tác động trực tiếp tới TTCK.
- Liên quan đến căng thẳng Trung Đông, ông đánh giá thế nào về triển vọng giá dầu và nhóm cổ phiếu dầu khí?
- Theo tôi, cổ phiếu dầu khí tăng là do đã đến thời điểm. Trước chiến tranh nổ ra khoảng 2 tuần, chúng tôi đã đưa ra báo cáo về ngành dầu khí, với câu chuyện đầu tư là ngành dầu khí có nhiều kế hoạch, định giá cổ phiếu thấp và dòng tiền mặt của các công ty rất tuyệt vời. Nếu mua lúc đó, NĐT đã có lợi nhuận khoảng 10-15% với đa số cổ phiếu dầu khí.
Theo kịch bản của JPMorgan, trong trường hợp xấu nhất là Mỹ tham chiến, giá dầu mới có thể lên 120 USD/thùng. Còn trong kịch bản cơ bản, giá dầu chỉ dừng lại ở mức hơn 80 USD/thùng, và sẽ không ảnh hưởng nhiều đến thị trường. Hiện nay đa số đều cho rằng kịch bản cơ bản của JPMorgan sẽ xảy ra.
- Cùng với căng thẳng địa chính trị, thỏa thuận thuế Việt - Mỹ là câu chuyện được NĐT hết sức quan tâm. Theo ông NĐT có thể kỳ vọng gì vào thỏa thuận này?
- Cho đến nay, NĐT vẫn đang chờ đợi thông tin chính thức. Trước đợt điều chỉnh do xung đột Israel - Iran, thị trường cũng đã có đợt giảm do thông tin chưa chắc chắn. Tuy nhiên, đến ngày 15-6, đã xuất hiện một số thông tin tích cực.
Chẳng hạn, Bloomberg cho biết Việt Nam đề xuất thuế quan khoảng 20-25%. Phía Mỹ cũng có quan điểm tích cực khi Tổng thống Trump tuyên bố người Mỹ không thể nào sản xuất được giày, quần áo hay thủy sản. Đây là những nhóm ngành Việt Nam sở hữu lợi thế cạnh tranh.
Với tình hình hiện tại, khi Mỹ và Trung Quốc đã có thể đóng băng được mức thuế quan (Mỹ 55%, Trung Quốc 10% theo thông báo của ông Trump), việc Việt Nam đàm phán thuế quan xuống 20-25% sẽ ngang Malaysia, thấp hơn nhiều so với Thái Lan, Indonesia.
Những quốc gia trên không đàm phán với Mỹ, đồng nghĩa sẽ chịu thuế như thông báo ban đầu. Nhờ đó, Việt Nam sẽ có lợi thế cạnh tranh so với các quốc gia Đông Nam Á cũng như Trung Quốc.
- Vậy ông dự báo thiên về kịch bản Việt Nam sẽ “chốt deal” sớm với Mỹ?
- Tôi nghĩ rằng 2 bên sẽ chốt được thỏa thuận thương mại vào tháng 7. Thời điểm chính xác chưa rõ ràng, vì nhiều quốc gia như Ấn Độ, Nhật Bản cũng đã đàm phán từ sớm nhưng chưa đạt kết quả. Tôi cho rằng vào trung tuần tháng 7, Việt Nam sẽ đạt thỏa thuận với Mỹ.
Trở lại năm 2018, Trung Quốc đàm phán với Mỹ mất tới 2 năm, đến khi đàm phán xong thì ông Trump cũng rời nhiệm sở. Lần này, dù có đẩy nhanh đàm phán cũng không thể ngắn hơn nhiều được.
Do vậy, ông Trump sẽ đưa đàm phán thành 2 giai đoạn. Đầu tiên, với các nước quan trọng, có thiện chí như Việt Nam, Ấn Độ thì Mỹ sẽ đàm phán trước. Sau đó Mỹ sẽ tham khảo kết quả đàm phán trên để áp thuế cố định cho những quốc gia còn lại.
- Theo ông, NĐT có nên dự báo đáy thị trường hay không?
- Theo quan điểm của tôi, nếu không sử dụng margin, NĐT không cần cố gắng đoán thị trường. Điều này đã được chứng minh trong lịch sử. Theo một công trình nghiên cứu, nếu NĐT đoán đáy thị trường trong giai đoạn 1970-1996 (khoảng 300 tháng), chỉ cần bỏ lỡ 12 tháng tốt nhất, hiệu suất đầu tư sẽ giảm còn một nửa so với việc nắm giữ cổ phiếu.
Kiểm tra lại luận điểm này với giai đoạn 1997-2024, nếu đứng ngoài trong 12 tháng tốt nhất, tỷ suất sinh lời của NĐT sẽ chỉ còn 5%, ngang với trái phiếu dài hạn. Còn nếu NĐT cứ mua và nắm giữ, tỷ suất sẽ đạt 9,3%.
Do vậy rất ít người có thể thành công trong việc đoán thị trường. Trong khi đó, việc “đoán đỉnh” lại quan trọng hơn nhiều so với “bắt đáy”.
- Xin cảm ơn ông.
Việc đoán TTCK chỉ phù hợp với người sử dụng margin. NĐT nên có tỷ lệ ổn định 80% đầu tư vào cổ phiếu. Trong trường hợp xấu, có thể bán bớt, nhưng vẫn nên giữ khoảng 70% danh mục, bởi chỉ cần bỏ lỡ vài phiên tăng của VN Index, thì hiệu suất đầu tư sẽ dễ trở về kém trung bình.
HẢI HỒ (thực hiện)