Cơ chế xác định tài sản chung, tài sản riêng của vợ, chồng chưa rõ ràng
Luật Hôn nhân và gia đình được Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 19/6/2014 tại Kỳ họp thứ Bảy, Quốc hội Khóa XIII. Quá trình triển khai thi hành Luật đã giúp công tác quản lý nhà nước về hôn nhân và gia đình cơ bản đạt được nhiều kết quả quan trọng. Tuy nhiên, bên cạnh đó, vẫn còn không ít khó khăn, thách thức.
Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tú phát biểu tại hội nghị
Một trong những vướng mắc đó là liên quan đến quan hệ tài sản giữa vợ chồng, khoản 4 Điều 44 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “Trong trường hợp vợ, chồng có tài sản riêng mà hoa lợi, lợi tức từ tài sản riêng đó là nguồn sống duy nhất của gia đình thì việc định đoạt tài sản này phải có sự đồng ý của chồng, vợ”. Tuy nhiên, chưa có quy định rõ ai là người có thẩm quyền xác định hoa lợi, lợi tức từ tài sản riêng đó là nguồn sống duy nhất của gia đình; cách thức xác định; thời điểm xác định để làm căn cứ cho các bên liên quan xác lập giao dịch có liên quan.
Ngoài ra, chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận hiện chưa có quy định về việc công khai (ghi chú thông tin), minh bạch việc vợ chồng lựa chọn áp dụng chế độ tài sản này; không có quy định yêu cầu hoặc khuyến khích đăng ký văn bản thỏa thuận tài sản vào hệ thống dữ liệu hộ tịch hoặc một cơ sở pháp lý nào khác. Đây cũng chính là một trong những nguyên nhân dẫn đến tiềm ẩn nguy cơ phát sinh tranh chấp, đặc biệt trong quan hệ với bên thứ ba khi người đó tham gia giao dịch nhưng không được biết về chế độ tài sản theo thỏa thuận này.
Bên cạnh đó, cơ chế xác định tài sản chung, tài sản riêng của vợ, chồng chưa rõ ràng, gây nhiều tranh chấp, đặc biệt đối với trường hợp tài sản là quyền sử dụng đất chỉ đứng tên một bên vợ hoặc chồng. Nguyên tắc suy đoán tài sản chung gây khó khăn trong việc xác định và thực thi quyền sở hữu riêng, nhất là đối với các tài sản phát sinh trong thời kỳ hôn nhân nhưng được mua bằng nguồn tiền riêng hoặc tiền hỗn hợp.
Điều đáng nói, hiện chưa có quy định cụ thể về hình thức thỏa thuận của vợ chồng trong việc định đoạt tài sản là tiền (đặc biệt với số tiền lớn). Những vướng mắc, bất cập và cả khoảng trống pháp lý này cần sớm khắc phục để bảo đảm quyền lợi của vợ, chồng khi ly hôn.
Hướng dẫn cụ thể tiêu chí xác định công sức đóng góp của vợ chồng
Có thể thấy, một trong những điểm tiến bộ nổi bật của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 là quy định linh hoạt hơn về chế độ tài sản của vợ chồng. Luật cho phép vợ chồng lựa chọn áp dụng chế độ tài sản theo luật định hoặc theo thỏa thuận, qua đó tạo điều kiện để phụ nữ chủ động hơn trong việc bảo vệ quyền tài sản của mình. Bên cạnh đó, các quy định về tài sản chung, tài sản riêng, nguyên tắc chia tài sản khi ly hôn (Điều 59) đã thể hiện rõ quan điểm bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của phụ nữ, đặc biệt là việc ghi nhận công sức đóng góp của vợ, kể cả lao động nội trợ, chăm sóc gia đình, được coi là lao động có thu nhập.
Bà Nguyễn Thị Kim Dung, Phó Trưởng ban Thường trực Ban Công tác phụ nữ, Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam phát biểu tại hội nghị
Tuy vậy, bà Nguyễn Thị Kim Dung, Phó Trưởng ban Thường trực Ban Công tác phụ nữ, Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam cũng chỉ rõ, thực tiễn giải quyết các tranh chấp tài sản khi ly hôn cho thấy, việc chứng minh tài sản chung, tài sản riêng và công sức đóng góp của vợ chồng vẫn là một trong những nội dung khó khăn và dễ phát sinh bất lợi cho phụ nữ. Phụ nữ, đặc biệt là phụ nữ không có thu nhập ổn định, phụ nữ ở khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa, thường ở vị thế yếu hơn trong việc tiếp cận thông tin pháp luật, thu thập chứng cứ và sử dụng các dịch vụ pháp lý cần thiết để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Trong nhiều trường hợp, phụ nữ không trực tiếp đứng tên tài sản, dẫn đến khó khăn trong việc chứng minh quyền sở hữu hoặc công sức đóng góp khi xảy ra tranh chấp.
Bên cạnh những khó khăn mang tính khách quan, thực tiễn cũng cho thấy cách hiểu và áp dụng pháp luật về chia tài sản vợ chồng chưa thực sự thống nhất, tồn tại sự khác biệt đáng kể giữa các địa phương và thậm chí giữa các cấp xét xử. Mặc dù Thông tư liên tịch số 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP đã có bước tiến quan trọng khi hướng dẫn rõ: “người vợ hoặc chồng ở nhà chăm sóc con, gia đình mà không đi làm được tính là lao động có thu nhập tương đương với thu nhập của vợ hoặc chồng đi làm”, song trên thực tế, việc áp dụng quy định này vẫn gặp nhiều vướng mắc phụ thuộc vào quan điểm của người tiến hành tố tụng: có xu hướng coi đóng góp kinh tế trực tiếp là tiêu chí chủ yếu để đánh giá công sức đóng góp, trong khi chưa đánh giá đầy đủ, toàn diện vai trò của phụ nữ trong lao động nội trợ, chăm sóc con cái, duy trì đời sống gia đình - những đóng góp mang tính nền tảng nhưng khó định lượng bằng tiền. Mặt khác, thông tư đồng thời cho phép Tòa án áp dụng nguyên tắc “bên có công sức đóng góp nhiều hơn thì được chia nhiều hơn”, nhưng chưa có tiêu chí cụ thể, định lượng hoặc hướng dẫn chi tiết để xác định thế nào là “công sức đóng góp nhiều hơn” trong từng trường hợp cụ thể.
Chính khoảng trống này đã dẫn đến việc quyết định tỷ lệ chia tài sản trong một số vụ án phụ thuộc đáng kể vào quan điểm chủ quan và đánh giá cá nhân của người tiến hành tố tụng, thay vì dựa trên các tiêu chí thống nhất, minh bạch. Trong thực tiễn, có những vụ việc, dù người vợ đã dành phần lớn thời gian cho việc nội trợ, chăm sóc con cái, hy sinh cơ hội học tập, nghề nghiệp để hỗ trợ chồng phát triển sự nghiệp, nhưng khi ly hôn vẫn chỉ được chia phần tài sản bằng hoặc thấp hơn người chồng với lý do “không có đóng góp kinh tế trực tiếp” hoặc “không chứng minh được công sức vượt trội”. Cách tiếp cận này, dù không trái với quy định pháp luật về mặt hình thức, nhưng chưa thực sự phản ánh đầy đủ tinh thần bảo đảm bình đẳng giới và bảo vệ quyền của phụ nữ mà Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 hướng tới.
Từ vướng mắc, bất cập này, để hoàn thiện quy định pháp luật về hôn nhân và gia đình theo hướng bảo vệ tốt hơn quyền của phụ nữ, bà Dung đề nghị bổ sung quy định về việc xác định công sức đóng góp của vợ, chồng trong việc tạo dựng, duy trì, phát triển khối tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân. Trong đó, cần lượng hóa giá trị nội trợ, chăm sóc gia đình không được hưởng lương, có tiêu chí cụ thể, định lượng hoặc hướng dẫn chi tiết để xác định thế nào là “công sức đóng góp nhiều hơn” trong từng trường hợp cụ thể.
Bà Phạm Thị Khánh Toàn, Vụ Giám đốc kiểm tra III, Tòa án Nhân dân tối cao phát biểu tại hội nghị
Nhằm hoàn thiện các quy định về vấn đề này, bà Phạm Thị Khánh Toàn, Vụ Giám đốc kiểm tra III, Tòa án Nhân dân tối cao cũng đề nghị, cần có hướng dẫn cụ thể việc phân chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân; hướng dẫn cụ thể hơn về tiêu chí xác định công sức đóng góp của vợ chồng. Cần hoàn thiện quy định về nghĩa vụ chứng minh là tài sản riêng và tiêu chuẩn đánh giá chứng cứ. Theo đó, cần quy định rõ bên cho rằng tài sản là của riêng có nghĩa vụ chứng minh bằng chứng cứ hợp lệ (giấy tờ sở hữu, văn bản tặng cho, chứng nhận thừa kế…). Bên cạnh đó, bổ sung về các nguyên tắc xác định tài sản, tài sản chung, cập nhật các loại hình sở hữu tài sản (tài sản sở hữu trí tuệ, tài sản số, tài sản là vốn góp trong các doanh nghiệp…) để có các chế định phân chia tài sản chung vợ chồng phù hợp.
Song Hà