Chứng nhận quốc tế cho tôm

Chứng nhận quốc tế cho tôm
10 giờ trướcBài gốc
Đối với con tôm, bên cạnh yếu tố mẫu mã, chất lượng, giá thành thì việc đạt các chứng nhận quốc tế trên sẽ mở ra cánh cửa rộng hơn để xâm nhập nhiều thị trường khó tính nhưng có sức tiêu thụ lớn, giá trị cao. Đơn cử như thị trường EU (tính cả Vương Quốc Anh), mặc dù chúng ta có nhiều lợi thế về: ưu đãi thuế quan (thông qua các hiệp định thương mại tự do), về trình độ chế biến sâu đạt chuẩn cao của thế giới, về giá tiêu thụ… nhưng mức độ tăng trưởng ở thị trường này trong những năm gần đây không như mong muốn, mà một trong những nguyên nhân là do sản lượng tôm Việt Nam được cấp chứng nhận ASC chưa nhiều.
Hợp tác để xóa bỏ tình trạng nuôi tôm nhỏ lẻ là một trong những giải pháp giúp nâng cao diện tích tôm nuôi đạt chứng nhận quốc tế. Ảnh: TÍCH CHU
Thách thức đối với ngành tôm là rất rõ ràng và đang ở cấp cao nhất so trước đây. Chỉ riêng với các tổ chức chứng nhận quốc tế như: BAP, ASC… ngày càng hoàn thiện hơn hệ thống kiểm soát của mình, gây bất ngờ, thụ động cho các nhà máy chế biến, vùng nuôi. Đó là chưa kể yêu cầu về truy xuất nguồn gốc sản phẩm cũng đang là yêu cầu chung của tất cả thị trường nhập khẩu của con tôm Việt Nam. Riêng đối với phân khúc cao cấp hiện hầu hết các thị trường đều yêu cầu phải đạt chứng nhận như: ASC, BAP, ISO... Do đó, chỉ có vùng nuôi tôm đạt các chứng nhận này mới thâm nhập vào phân khúc cao cấp một cách thuận lợi.
Trong khi đó, diện tích nuôi tôm đạt chuẩn quốc tế hiện còn rất thấp, mà một trong những nguyên nhân chính là phần lớn hộ nuôi nhỏ lẻ nên khó theo đuổi chứng nhận này, do chi phí đánh giá sẽ làm tăng chi phí không nhỏ. Còn chuyện cấp mã số cơ sở nuôi tôm diễn ra rất chậm, gây không ít khó khăn cho các doanh nghiệp trong việc chứng minh, thuyết phục khách hàng về khả năng kiểm soát nguyên liệu của mình. Đối với thị trường tôm lớn như EU, các hệ thống phân phối lớn ở đây yêu cầu kiểm tra chất lượng tôm theo chuỗi giá trị. Trong đó, cơ sở cung ứng tôm giống và thức ăn phải đạt chuẩn như: ASC, BAP, ISO... còn thị trường tôm lớn thứ hai là Nhật Bản hiện vẫn duy trì kiểm tra toàn bộ lô hàng tôm từ Việt Nam với nhiều tiêu chí dư lượng khắt khe.
Đối với thị trường Hoa Kỳ, tuy có dễ tính hơn nhưng lại là nơi hội tụ tôm từ nhiều nguồn tôm rẻ trên thế giới, nhất là Ấn Độ, Ecuador và Indonesia khiến việc tiêu thụ tôm Việt Nam vào đây bị hạn chế do phải cạnh tranh về giá. Còn thị trường Canada coi trọng hậu kiểm, tức họ kiểm hàng doanh nghiệp nào đó trên kệ trong siêu thị, nếu không đạt, hàng của doanh nghiệp đó đang lưu hành ở Canada sẽ bị triệu hồi, trả về Việt Nam khiến rủi ro không còn ở từng lô hàng mà cho toàn bộ hàng đang tiêu thụ. Riêng 2 thị trường mới khá lớn là Hàn Quốc và Úc thì tập trung kiểm tra bệnh tôm, mà bệnh tôm khá phổ biến ở đồng bằng sông Cửu Long nên cũng rất khó cho doanh nghiệp.
Trước tình hình này, theo các doanh nghiệp, toàn ngành cần nỗ lực đẩy nhanh hơn các chương trình hành động, mang tính đồng bộ, thiết thực và có tác dụng cụ thể, như: tuyên truyền, kiểm tra, ngăn chặn các chế phẩm không được sử dụng trong nuôi tôm, nhất là các kháng sinh cấm một cách quyết liệt, triệt để ngay từ bây giờ và duy trì dài hạn. Quy hoạch lại vùng nuôi và đầu tư cơ sở hạ tầng; tổ chức lại sản xuất nuôi tôm quy mô trang trại, hợp tác xã đạt các tiêu chuẩn theo yêu cầu thị trường để sản phẩm có thể tiêu thụ ở các hệ thống lớn, giá tốt, tạo nền tảng đột phá cho chất lượng, uy tín, thương hiệu tôm Việt Nam.
Giải pháp tiếp theo là nên có nhiều dự án kêu gọi đầu tư nuôi tôm; có chính sách tích tụ đất đai để hình thành các trại nuôi quy mô hàng trăm hécta, để có đủ điều kiện thực hiện quy trình nuôi thâm canh hoàn chỉnh, giảm thiểu rủi ro, tăng năng suất, giảm giá thành, tăng sức cạnh tranh cho tôm Việt. Khi diện tích nuôi đạt chuẩn ASC đạt hàng trăm ngàn hécta, chắc chắn tôm Việt sẽ chiếm lĩnh phân khúc thị phần tôm cao cấp ở tại các thị trường, góp phần đáng kể cho việc hoàn thành mục tiêu nâng tầm tôm Việt.
Thách thức đối với ngành tôm là rõ ràng và đang ở mức cao nhất, nên để vượt qua những thách thức này hữu hiệu nhất là làm sao hạn chế tối đa sơ suất. Muốn vậy, con tôm Việt Nam trước hết cần phải sạch, có chứng nhận quốc tế và dễ truy xuất nguồn gốc. Muốn làm được điều này, cần kiểm soát tốt các chế phẩm đầu vào nuôi tôm; có chương trình xây dựng hợp tác, hình thành trang trại lớn, chuẩn mực để dễ truy xuất nguồn gốc, dễ thực hành và đạt các chứng nhận quốc tế để thuyết phục hệ thống tiêu thụ cao cấp chấp nhận giá cao. Sự đồng bộ của các thành viên trong chuỗi giá trị sẽ là yêu cầu thiết yếu trong thời gian tới.
Giá tôm nguyên liệu trong nước thời gian qua được giữ vững là nhờ trình độ chế biến của các nhà máy, nhưng về lâu dài, vấn đề này sẽ không còn vì các nước hiện cũng đang đầu tư cho chế biến rất nhiều, nên ngành tôm cần có giải pháp khả thi trong việc giảm giá thành sản xuất, tăng diện tích đạt chứng nhận để tăng thêm tính cạnh tranh cho con tôm Việt trên thị trường thế giới. Chỉ có như vậy, ngành tôm mới phát triển hiệu quả, bền vững và hoàn thành sứ mệnh “Nâng tầm tôm Việt”.
TÍCH CHU
Nguồn Sóc Trăng : https://baosoctrang.org.vn/kinh-te/202506/chung-nhan-quoc-te-cho-tom-188628c/