Bội tín, phá bỏ hợp đồng, phải đền bù bằng tài khoản ngân hàng
PV: Những năm qua, do giá dứa ổn định và có giai đoạn tăng cao nên diện tích trồng dứa cũng tăng lên khoảng 3800 - 4000ha, tăng nhiều so với quy hoạch cũ. Cây dứa tỉnh nhà đã và đang có rất nhiều thuận lợi, thưa ông?
Ông Trịnh Văn Chất:
Thuận lợi, thấy rất rõ. Thứ nhất là đất đai, thổ nhưỡng phù hợp. Thứ hai, là trình độ thâm canh cao, bà con đã biết cách rải vụ, tránh được sự ùn ứ sản lượng khi tiêu thụ. Thứ ba, là nhu cầu tiêu thụ dứa rất lớn. Thứ tư, là người dân dám đầu tư thâm canh. Hiện nay, qua theo dõi của ngành nông nghiệp, nếu đầu tư 1ha dứa, dao động khoảng 150 – 160 triệu đồng, như với giá dứa hiện nay thì trừ chi phí, cây dứa vẫn cho lợi nhuận khoảng 200 – 300 triệu đồng/ha. Chính vì vậy mà người nông dân tiếp tục quay lại đầu tư cho cây dứa.
Tuy nhiên, đối với Thanh Hóa, là một tỉnh có diện tích trồng dứa đứng top 10 của cả nước nhưng chỉ mới có 4 nhà máy sản xuất, chế biến vừa và nhỏ, thậm chí siêu nhỏ, do đó mà sản lượng tiêu thụ qua chế biến thấp. Nên vấn đề đặt ra ở đây là phải bảo đảm độ tin tưởng bởi khi giá dứa xuống thấp thì nông dân ồ ạt bán cho doanh nghiệp, trong khi đó doanh nghiệp lại nhỏ nên không đủ sức gồng gánh sản lượng. Ngược lại, giá dứa cao thì các thương lái tỉnh ngoài nhập để xuất đi Trung Quốc theo con đường tiểu ngạch nên đã dẫn đến sự bấp bênh trong việc đầu ra cho cây dứa.
PV: Được biết, tỉnh Thanh Hóa đã chấp thuận chủ trương đầu tư dự án Nhà máy sản xuất nước trái cây tại xã Ngọc Liên. Theo đó, nhu cầu nguyên liệu phục vụ cho nhà máy hoạt động chủ yếu là các sản phẩm từ dứa?
Ông Trịnh Văn Chất:
Dự án Nhà máy sản xuất nước trái cây tại xã Ngọc Liên với quy mô, công suất thiết kế: Dây chuyền cô đặc nước trái cây 20.000 tấn thành phẩm/năm; dây chuyền chế biến và đóng hộp nước trái cây 30.000 tấn thành phẩm/năm; nhà máy cần khoảng 200.000 tấn dứa tươi/năm, tương ứng diện tích vùng nguyên liệu từ 3.500ha trở lên. Đây là cơ hội tốt để ngành nông nghiệp tỉnh Thanh Hóa nói chung và nông dân các xã có vùng nguyên liệu dứa nói riêng, ổn định và yên tâm đầu tư sản xuất gắn với liên kết theo chuỗi giá trị.
Tuy nhiên, định hướng tới đây, ngành nông nghiệp cũng sẽ phối hợp với Viện nông nghiệp tỉnh nhân nhanh giống dứa MD2 có năng suất, chất lượng cao bằng phương pháp cấy mô, với diện tích dao động khoảng 300 – 400ha. Hy vọng, trong 3 năm tới, diện tích này sẽ tăng lên hàng nghìn ha, thay thế dần các giống dứa trước đây, đáp ứng yêu cầu của các nhà máy và các thị trường khó tính.
PV: Quay trở lại với câu chuyện phá vỡ hợp đồng và “bội tín” trong kinh doanh giữa người nông dân và doanh nghiệp, lẽ nào cứ để tình trạng này tiếp diễn?
Ông Trịnh Văn Chất:
Tới đây, đối với các hộ nông dân, sẽ khuyến khích hình thành HTX hoặc các tổ HTX, để làm sao ký kết hợp đồng với doanh nghiệp, ít nhất là có diện tích, quy mô lớn để doanh nghiệp tin tưởng đầu tư. Hai là, hướng tới liên kết bền vững và văn minh trong hợp đồng, đấy là mở tài khoản ngân hàng. Nếu bên nào bội tín, phá bỏ hợp đồng thì phải đền bù bằng tài khoản ngân hàng đã liên kết. Có như vậy thì mới bền vững. Nếu ký kết giữa doanh nghiệp với hộ nông dân thì rất mong manh, nhỏ lẻ và thay vì đầu tư của doanh nghiệp cho các HTX, sẽ dễ hơn nhiều so với đầu tư từng hộ gia đình.
Giữ vững niềm tin với cây dứa
PV: Thực tế cho thấy, sau 8 năm đi vào hoạt động, công ty của ông đã khẳng định được thương hiệu và có chỗ đứng nhất định trên thị trường xuất khẩu nông sản, đặc biệt đối với sản phẩm dứa đóng hộp. Tuy nhiên, để đạt được thành công này, chắc hẳn công ty đã đi qua nhiều khó khăn và dường như ngay ở thời điểm này, khó khăn vẫn đang còn hiện diện, thưa ông?
Ông Lê Trường Tùng:
Đến nay, dứa đóng hộp của công ty đã có mặt ở gần 20 thị trường nước ngoài. Trong đó có một số thị trường yêu cầu đặt hàng nhiều nhưng do sản lượng không đủ nên công ty luôn phải phân chia thị trường. Trong đó, phải kể đến một số nước như
Rumani, xuất 1 tháng khoảng 4 -5 container hay Braxin, cũng 3 - 4 container trong 1 tháng. Mới đây, cũng sản phẩm dứa đóng hộp, công ty cũng vừa ký hợp đồng với nước Ý.
Đúng là hiện tại, công ty đang gặp khó khăn đối với nguyên liệu đầu vào. Theo kế hoạch, trong 6 tháng đầu năm 2025, công ty phải chế biến 5.500 tấn dứa quả nhưng hiện mới chỉ đạt khoảng 65% kế hoạch.
Không chỉ năm nay mà năm ngoái, giá dứa nguyên liệu cũng tăng cao khiến công ty cũng phải đối diện với khó khăn. Nguyên nhân chính, khi người nông dân không giữ đúng lời hứa như đã cam kết trong hợp đồng thì sẽ xảy ra việc thiếu nguyên liệu đối với doanh nghiệp. Trong trường hợp, giá dứa thấp, thậm chí có thời điểm chỉ 2.500 đồng/kg thì bà con cứ đổ dồn ứ cho nhà máy nhưng khi giá dứa tăng lại chủ yếu bán cho thương lái. Nghịch lý là ở chỗ đấy.
Sắp tới đây, tôi sẽ đưa giống dứa MD2 lên một số xã miền núi, bao tiêu sản phẩm cho bà con. Tuy nhiên, hạn chế lớn nhất của người nông dân tại đây là về trình độ khoa học kỹ thuật. Trước đó, tôi cũng đã đi về một số xã ở các huyện Lang Chánh, Thường Xuân (cũ), thực tế, năng suất dứa rất thấp, chỉ 20 – 25 tấn/ha, thậm chí có những hộ chỉ đạt 10 tấn/ha.
Tất nhiên là, khi bao tiêu sản phẩm cho bà con thì doanh nghiệp vẫn trong một tâm trạng là sẽ bị “bỏ rơi” khi giá dứa tăng cao. Biết vậy, nhưng vẫn phải đặt niềm tin, vẫn phải hy vọng vì nếu không sẽ khan hiếm nguồn nguyên liệu đầu vào.
PV: Dù có khó khăn thế nào đi nữa thì chúng ta vẫn phải giữ vững niềm tin với cây dứa, thưa ông?
Ông Lê Trường Tùng:
Đúng là vậy. Vừa rồi, tôi có tiếp các bạn khách Hàn Quốc. Họ đã nói rằng, họ rất cảm ơn Đảng và Chính phủ Việt Nam, bởi khi họ mua dứa và nông sản ở một số nước khác là bị đánh thuế từ 12 - 15% nhưng ở Việt Nam, giá vừa rẻ lại không mất thuế. Vì sự ưu ái đấy nên họ “đổ” sang Việt Nam mua nông sản. Và với chúng tôi là những người sản xuất, cũng đã cảm nhận rõ được điều này.
Thiếu liên kết chuỗi giá trị bền vững
PV: Hà Long được xem là một trong những vùng dứa lớn nhất của tỉnh Thanh Hóa. Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi, việc phát triển cây dứa ở Hà Long vẫn đang đối mặt với không ít khó khăn. Bà có thể chia sẻ thêm về sự khó này?
Bà Nguyễn Thị Liên:
Hiện nay, toàn xã Hà Long có hơn 650ha diện tích với 570 hộ tham gia trồng dứa. Đáng chú ý là tình trạng giá cả biến động mạnh theo mùa vụ và nhu cầu thị trường, khiến thu nhập của người dân thiếu ổn định. Hạ tầng giao thông phục vụ vận chuyển nông sản ở một số thôn, vùng trồng dứa chưa được nâng cấp đồng bộ, gây khó khăn trong khâu tiêu thụ, đặc biệt vào mùa mưa. Ngoài ra, việc thiếu liên kết chuỗi giá trị bền vững khiến nông dân chủ yếu bán dứa thô với giá trị chưa cao. Trong khi đó, giá bán theo thị trường lại do thương lái thu mua quyết định, vì vậy, khi giá dứa xuống thấp, người dân thường bị ép giá. Hiện trên địa bàn xã, chưa có các nhà máy chế biến đứng ra ký hợp đồng bao tiêu sản phẩm cho các hộ dân.
VI AN (thực hiện)