Phiên tọa đàm: “Hài hòa mục tiêu tăng trưởng cao và phát triển bền vững” trong khuôn khổ Diễn đàn Công nghiệp xanh 2025. Ảnh: Việt Dũng.
Việt Nam đang bước vào giai đoạn mà tăng trưởng công nghiệp không thể dựa mãi vào mở rộng quy mô và tiêu hao tài nguyên, mà phải dựa trên nền tảng công nghệ, năng suất và phát triển bền vững.
Hay nói một cách vĩ mô, chúng ta phải chuyển đổi mô hình tăng trưởng, từ thâm dụng tài nguyên sang thâm dụng công nghệ, đổi mới sáng tạo.
Tuy nhiên, câu hỏi lớn đặt ra là: Làm sao để doanh nghiệp, đặc biệt trong lĩnh vực sản xuất, có thể cùng lúc đảm bảo tốc độ tăng trưởng cao, mà vẫn đáp ứng các tiêu chuẩn môi trường ngày càng khắt khe?
Tại phiên tọa đàm với chủ đề: “Hài hòa mục tiêu tăng trưởng cao và phát triển bền vững” trong khuôn khổ Diễn đàn Công nghiệp xanh 2025 do Tạp chí Kinh tế Việt Nam – VnEconomy – Vietnam Economic Times tổ chức ngày 9/7/2025, nhiều doanh nghiệp như Tổng công ty May 10, Tổng Công ty Thép Việt Nam-CTCP (VnSteel), Panasonic, CNCTech, VietCycle… đã chia sẻ những áp lực, khó khăn trong thực hiện chuyển đổi xanh, nhưng cũng đã nỗ lực tiên phong, chủ động lựa chọn con đường phát triển bền vững như một chiến lược dài hạn.
Tại tọa đàm, các ý kiến doanh nghiệp đều kiến nghị Nhà nước nên có những cơ chế về khuyến khích để sử dụng những sản phẩm xanh. Ảnh: Việt Dũng.
Chia sẻ tại tọa đàm, bà Nguyễn Thị Phương Thảo, Giám đốc điều hành, Tổng Công ty May 10, cho biết May 10 bước vào hành trình chuyển đổi xanh không chỉ vì là từ áp lực thị trường, từ câu chuyện mà Việt Nam tuyên bố giảm phát thải về 0% đến năm 2050 tại COP26, mà từ nhận thức nội tại của doanh nghiệp. "Nếu không chuyển đổi xanh, rất khó để hội nhập quốc tế, rất khó có thể đứng vững trong chuỗi cung ứng toàn cầu. Cùng với đó là trách nhiệm của doanh nghiệp đối với môi trường và xã hội", bà Thảo nhấn mạnh.
Với ngành công nghiệp thép, ông Phạm Công Thảo, Phó Tổng Giám đốc VnSteel, Phó Chủ tịch Hiệp hội Thép Việt Nam (VSA) cũng cho rằng áp lực lớn nhất đối với việc chuyển đổi có lẽ đến từ thị trường xuất khẩu.
Hiện nay, Việt Nam xuất khẩu khoảng 13 triệu tấn thép ra thị trường thế giới. Trong đó, khoảng 40% là xuất khẩu sang các thị trường các nước phát triển như EU (khoảng 27%) và Hoa Kỳ (khoảng 13%).
Thị trường EU bắt đầu đưa ra các quy định khắt khe với sản phẩm nhập khẩu, như CBAM (Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon) bắt đầu áp dụng từ 2026. Như vậy, nếu doanh nghiệp đáp ứng được yêu cầu này, mới có thể cạnh tranh được trên thị trường EU. Ngược lại, không đáp ứng được, doanh nghiệp bắt buộc phải tìm thị trường mới.
Ngoài ra, các chính sách về môi trường của Nhà nước cũng là một trong những yếu tố áp lực đối với việc chuyển đổi xanh của doanh nghiệp.
Hay với ngành nhựa, ông Hoàng Đức Vượng - Chủ tịch HĐQT Công ty Cổ phần VietCycle, Phó Chủ tịch Hiệp hội Nhựa Việt Nam (VPA), cho biết các sản phẩm nhựa khi xuất ra châu Âu bây giờ đòi hỏi đến 30%, đến năm 2028 này là 35% phải có hạt nhựa tái sinh.
Đặc biệt, sản phẩm nhựa như túi đựng rác của châu Âu phải có đến 70% hạt nhựa tái sinh. Do đó, ngành nhựa buộc phải thay đổi. Để dùng hạt nhựa tái sinh buộc phải thay đổi về công nghệ, buộc phải đầu tư thêm.
Chính những áp lực trên nhiều doanh nghiệp đã tiên phong trong chuyển đổi xanh. Bà Nguyễn Thị Phương Thảo cho biết hơn 5 năm trở lại đây, May 10 đã thực hiện chuyển đổi xanh. Bắt đầu từ việc sử dụng những nguyên phụ liệu bền vững: nguyên phụ liệu tái chế, organic cotton… Đầu tư vào điện năng lượng mặt trời áp mái với hàng triệu kWh tại những công trình lớn của May 10; chuyển đổi từ sử dụng nồi hơi than đá sang sử dụng nồi hơi sinh khối và có thể giảm thải cả ngàn tấn CO2 mỗi năm…
Chuyển đổi xanh không còn là một lựa chọn, mà là điều kiện để tiếp tục tồn tại và phát triển trong bối cảnh toàn cầu mới. Tuy nhiên, doanh nghiệp không thể đi một mình. Công cuộc chuyển đổi xanh trong sản xuất công nghiệp cần có một hệ sinh thái đồng hành, bao gồm chính sách nhất quán, nguồn vốn xanh, công nghệ phù hợp và sự liên kết giữa các bên.
Tại tọa đàm, các ý kiến doanh nghiệp đều kiến nghị Nhà nước nên có những cơ chế về khuyến khích để sử dụng những sản phẩm xanh, và cũng như khuyến khích về thuế đối với những sản phẩm xanh.
Mặt khác, dù đã có những tổ chức tín dụng xanh, nhưng việc tiếp cận lại rất khó, thủ tục rườm rà. Trong khi ở các nước khác, họ có ngân sách để hỗ trợ trực tiếp cho các doanh nghiệp chuyển đổi xanh. Việt Nam cần xây dựng thể chế và tín dụng xanh đủ mạnh, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp tiếp cận, cũng là động lực cho sự chuyển đổi nhanh, sớm hơn.
Đồng thời, thúc đẩy phát triển hệ sinh thái đổi mới sáng tạo kết nối doanh nghiệp với viện nghiên cứu và trường đại học...
Vũ Khuê