Phó Giám đốc Viện giáo dục và Đào tạo số VTC Ngô Văn Đức nhận định, chuyển đổi số giúp người dân tiếp cận kiến thức pháp luật dễ dàng, thuận tiện và hiệu quả. Ảnh: Bạch Dương
Theo ông Ngô Văn Đức, mô hình PBGDPL truyền thống thường vận hành theo cấu trúc lấy cơ quan Nhà nước làm trung tâm, nơi mỗi đơn vị quản lý một lĩnh vực và cung cấp thông tin một cách riêng rẽ. Nhưng các quốc gia tiên tiến đã có sự chuyển dịch mang tính cách mạng, từ việc yêu cầu công dân phải "đi tìm" pháp luật sang việc để pháp luật "tìm đến" và phục vụ công dân.
Đồng thời, đột phá trong phương thức giáo dục, từ truyền tải thông tin tĩnh sang kiến tạo tri thức tương tác và đột phá trong hoạch định chính sách, từ bị động, dàn trải sang chủ động, dựa trên dữ liệu cấp độ cao nhất của PBGDPL hiện đại là khả năng sử dụng dữ liệu để đưa ra các quyết sách chiến lược.
Ông Ngô Văn Đức nhận định, thực trạng CĐS trong PBGDPL tại Hà Nội, dù đã có những bước tiến ban đầu, vẫn cho thấy một khoảng cách đáng kể và bộc lộ rõ những rào cản mang tính hệ thống. Đó là hạn chế về công nghệ, hạ tầng và dữ liệu. Các cổng thông tin điện tử hiện nay hoạt động như những "ốc đảo" riêng lẻ, thiếu khả năng kết nối, liên thông và chia sẻ dữ liệu.
Đồng thời, hạn chế nội dung, cách thức truyền tải, phân phối và trải nghiệm người dùng. Phần lớn nội dung vẫn là các văn bản pháp luật khô khan, được "sao chép" lên môi trường số. Thiếu các nội dung được thiết kế chuyên biệt, mang tính trải nghiệm và phù hợp với công nghệ số như: video tương tác, podcast, infographic, tình huống game hóa (gamification), micro-learning (học tập qua các đơn vị kiến thức nhỏ)... Việc trải nghiệm người dùng trên các cổng thông tin còn phức tạp, khó khăn tìm kiếm và thiếu tính cá nhân hóa, chưa thực sự lấy người dân làm trung tâm.
Bên cạnh đó là sự thiếu hụt về năng lực số và tư duy sáng tạo. Hiện, công nghệ đã phát triển quá nhanh, đặc biệt là Trí tuệ nhân tạo (AI), nhưng đội ngũ cán bộ làm công tác PBGDPL, dù tâm huyết, nhưng phần lớn chưa được trang bị kỹ năng sản xuất nội dung số, phân tích dữ liệu, marketing kỹ thuật số, hay tư duy thiết kế lấy người dùng làm trung tâm.
Đáng nói, tiềm năng của các công nghệ đột phá như AI gần như chưa được khai thác. Chưa có các chatbot pháp lý thông minh để giải đáp thắc mắc 24/7, chưa có hệ thống gợi ý nội dung cá nhân hóa, và chưa có công cụ AI phân tích dữ liệu lớn để dự báo các "điểm nóng" pháp lý trong xã hội, từ đó giúp xây dựng kế hoạch PBGDPL một cách chủ động và trúng đích…
Để vượt qua các rào cản trên và hiện thực hóa tầm nhìn về một nền tảng phục vụ công tác PBGDPL thông minh, ông Ngô Văn Đức cho rằng, Sở Tư pháp TP Hà Nội cần triển khai một khung giải pháp đồng bộ gồm ba trụ cột chiến lược.
Thứ nhất là xây dựng "Hệ sinh thái pháp luật số" thông minh và hợp nhất. Thay vì chỉ là nơi đăng tải thông tin một chiều, Cổng Thông tin điện tử PBGDPL Hà Nội cần được tái cấu trúc toàn diện để trở thành một trung tâm tương tác hai chiều, thông minh và chủ động
Thứ hai là phát triển nền tảng PBGDPL thế hệ mới (MOOCs 4.0). Để công tác PBGDPL thực sự có hiệu quả sâu rộng, lâu bền, đến với nhiều đối tượng trong xã hội, đặc biệt là thế hệ học sinh, sinh viên thì việc tích hợp nội dung pháp luật vào các bài học một cách sáng tạo và đổi mới là chiến lược rất hiệu quả.
Thứ ba là kiến tạo chu trình hoạch định chính sách dựa trên dữ liệu. Theo ông Đức, đây là trụ cột mang tính cách mạng nhất, thay đổi tận gốc tư duy làm PBGDPL.
Phó Giám đốc Viện Giáo dục và Đào tạo số VTC nêu rõ, CĐS trong PBGDPL tại Hà Nội đang ở một giao điểm quan trọng, hoặc tiếp tục đi theo lối mòn của việc số hóa rời rạc, hoặc thực hiện một bước nhảy vọt chiến lược để xây dựng một hệ sinh thái thông minh thực sự. Việc triển khai thành công khung chiến lược ba trụ cột này sẽ biến công tác PBGDPL từ bị động, một chiều thành chủ động, tương tác và cá nhân hóa. Nó không chỉ nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước mà còn kiến tạo một văn hóa pháp lý số, nơi mỗi người dân Hà Nội đều có thể tiếp cận kiến thức pháp luật một cách dễ dàng, thuận tiện và hiệu quả nhất.
Để tầm nhìn này trở thành hiện thực, cần có sự quyết tâm chính trị mạnh mẽ, sự đầu tư xứng đáng về nguồn lực, và quan trọng nhất là một sự thay đổi trong tư duy – coi CĐS không phải là một dự án công nghệ, mà là một cuộc cách mạng trong cách thức phục vụ Nhân dân.
Bạch Dương