TS. Dư Văn Toán: "Chúng ta đang thiếu một chiến lược quốc gia về năng lượng đại dương, cũng như khung pháp lý riêng cho phát triển điện gió ngoài khơi".
Tại Diễn đàn Dầu khí - Năng lượng thường niên 2025 với chủ đề “Chuyển dịch năng lượng: Tầm nhìn và hành động”, do Hội Dầu khí Việt Nam (Hội DKVN) phối hợp cùng Tập đoàn Công nghiệp - Năng lượng Quốc gia Việt Nam (Petrovietnam) tổ chức, TS. Dư Văn Toán - Viện Khoa học môi trường, biển và hải đảo (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) đã nhấn mạnh tiềm năng to lớn của các dạng năng lượng tái tạo biển tại Việt Nam như điện gió ngoài khơi, năng lượng sóng, thủy triều, dòng chảy, gradient muối… Đồng thời, ông chỉ ra rằng, thực trạng thiếu khung pháp lý đang là rào cản lớn đối với việc khai thác hiệu quả các nguồn tài nguyên này.
Loay hoay với những khoảng trống pháp lý
Việt Nam được đánh giá là quốc gia có tiềm năng rất lớn về năng lượng tái tạo biển. Theo TS. Dư Văn Toán, chỉ riêng điện gió ngoài khơi, tiềm năng kỹ thuật đã lên tới gần 950 GW - gấp nhiều lần nhu cầu điện nội địa hiện tại. Bên cạnh đó, Việt Nam còn sở hữu các nguồn năng lượng biển khác như năng lượng sóng, thủy triều, bức xạ mặt trời trên biển, gradient nhiệt và muối, sinh khối biển, hydro xanh… phù hợp với định hướng phát triển năng lượng xanh và mục tiêu phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050.
Tuy nhiên, khung pháp lý quy định việc khai thác các dạng năng lượng biển hiện còn thiếu hệ thống và chưa đủ mạnh để định hướng và dẫn dắt sự phát triển.
Hiện Việt Nam có một số văn bản định hướng quan trọng như: Nghị quyết 36-NQ/TW năm 2018 về phát triển bền vững kinh tế biển; Nghị quyết 55-NQ/TW năm 2020 về định hướng phát triển năng lượng quốc gia; cùng các luật liên quan như: Luật Biển, Luật Tài nguyên môi trường biển và hải đảo, Luật Điện lực, Quy hoạch tổng thể vùng bờ và Quy hoạch điện VIII. Tuy nhiên, các chính sách này mới chỉ dừng ở mức khung, chưa có các luật chuyên biệt hoặc cơ chế đặc thù cho phát triển năng lượng biển, đặc biệt là điện gió ngoài khơi.
Minh họa tiềm năng điện gió ngoài khơi theo phân tích của TS. Dư Văn Toán
“Chúng ta đang thiếu một chiến lược quốc gia về năng lượng đại dương; luật riêng cho phát triển điện gió ngoài khơi; quy hoạch không gian năng lượng biển cấp quốc gia; tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật; cũng như các chính sách về thị trường, hạ tầng, vốn và nguồn nhân lực cho lĩnh vực này”, ông Toán nhận định.
Đề xuất 8 nhóm giải pháp khơi thông động lực
Từ nhận diện các khoảng trống pháp lý, TS. Dư Văn Toán đề xuất 8 nhóm giải pháp cấp thiết nhằm hoàn thiện hành lang pháp lý, tạo điều kiện thúc đẩy phát triển các dạng năng lượng tái tạo biển, đặc biệt là điện gió ngoài khơi.
Vị chuyên gia cho rằng, Việt Nam cần sớm thiết lập một chương trình khoa học - công nghệ quốc gia có tính tổng thể về năng lượng tái tạo biển, trong đó điện gió ngoài khơi giữ vai trò trọng tâm. Chương trình cần bao quát toàn diện các khía cạnh: chính sách, pháp luật, quản lý nhà nước, khảo sát thực địa, đánh giá môi trường - xã hội, hiệu quả đầu tư, phát triển công nghệ và chuỗi cung ứng.
Nhóm giải pháp thứ hai là hoàn thiện hệ thống pháp lý và kỹ thuật. Theo đó, cần nghiên cứu, xây dựng và bổ sung các đạo luật, quy định, quy chuẩn kỹ thuật - môi trường, cùng các tiêu chuẩn xã hội dành riêng cho lĩnh vực điện gió ngoài khơi. Nội dung bao gồm: quản lý công trình, hạ tầng kỹ thuật, thị trường điện, huy động vốn, phát triển công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực, cũng như các yêu cầu về giám sát môi trường và công bằng xã hội.
Ông Dư Văn Toán cũng nhấn mạnh vai trò quan trọng của việc thúc đẩy các chương trình hợp tác với các quốc gia có kinh nghiệm trong phát triển điện gió ngoài khơi và năng lượng biển. Nội dung hợp tác cần tập trung vào nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ, bảo vệ môi trường biển, chia sẻ dữ liệu khí hậu và hỗ trợ kỹ thuật - tài chính cho giai đoạn khởi động.
TS. Dư Văn Toán đề xuất khởi động cơ chế thí điểm nhằm phát triển 3-4 GW công suất điện gió ngoài khơi đến năm 2030, kèm theo định hướng sản xuất hydrogen xanh
Ở nhóm giải pháp tiếp theo, ông đề xuất sớm lập quy hoạch không gian biển dành riêng cho năng lượng tái tạo, triển khai ở cả cấp quốc gia và địa phương, gắn với chiến lược phát triển bền vững, tránh xung đột giữa các ngành kinh tế biển, đồng thời tạo điều kiện cấp phép nhanh chóng và minh bạch cho các dự án điện gió ngoài khơi.
Bên cạnh đó, việc thiết lập cơ chế tài chính bền vững và định giá tác động môi trường là hết sức cần thiết, nhằm đánh giá toàn diện mức độ tổn thương sinh thái và chi phí môi trường của các dự án năng lượng tái tạo biển, từ đó xây dựng cơ chế thuế, phí phù hợp. Các dự án cũng cần có nghĩa vụ đóng góp vào các quỹ bảo vệ môi trường, phục hồi sinh thái, khí hậu, năng lượng xanh và công bằng năng lượng, góp phần bảo đảm phát triển bền vững và nâng cao mức độ chấp nhận của xã hội.
Nhóm giải pháp khảo sát kỹ thuật và xác lập khu vực tiềm năng được đề xuất thông qua việc tiếp tục đo gió và đánh giá tiềm năng kỹ thuật của toàn bộ vùng biển đặc quyền kinh tế là bước đi quan trọng để xác định các vị trí phù hợp phát triển điện gió ngoài khơi. Quá trình khảo sát cần tính đến cả các mô hình trang trại gió xa bờ không nối lưới, phục vụ các đảo, sản xuất hydro xanh, amoniac xanh và các ứng dụng công nghiệp năng lượng mới trong tương lai.
Trên cơ sở đó, vị chuyên gia cho rằng cần sớm xây dựng một đề án chiến lược quốc gia và quy hoạch tổng thể phát triển năng lượng tái tạo biển, làm cơ sở chuẩn hóa bản đồ ranh giới và diện tích biển, phục vụ cấp phép đầu tư, quy hoạch hạ tầng và điều phối sử dụng không gian biển giữa các ngành.
TS. Dư Văn Toán đề xuất khởi động cơ chế thí điểm nhằm phát triển 3-4 GW công suất điện gió ngoài khơi đến năm 2030, kèm theo định hướng sản xuất hydrogen xanh. Đây sẽ là giai đoạn thử nghiệm chính sách, hình thành chuỗi giá trị nội địa và chuẩn bị điều kiện cho phát triển ngành công nghiệp điện gió ngoài khơi một cách bài bản.
Trước mắt, theo TS. Dư Văn Toán, cần sớm ban hành một bộ luật riêng hoặc nghị định chuyên biệt về điện gió ngoài khơi, làm khung pháp lý nền tảng. Đồng thời, ông đề xuất giao Petrovietnam - với kinh nghiệm dày dạn trong khảo sát, triển khai các dự án ngoài khơi - làm đơn vị tiên phong thực hiện khảo sát và phát triển các dự án mẫu, tạo tiền đề cho toàn ngành.
Phương Thảo