Chuyên gia nói về các phương pháp hiện đại giúp làm chậm sự tiến triển của bệnh Alzheimer

Chuyên gia nói về các phương pháp hiện đại giúp làm chậm sự tiến triển của bệnh Alzheimer
6 giờ trướcBài gốc
Tiến sĩ Y khoa, Giáo sư Vladimir Anatolyevich Parfenov – Trưởng khoa Thần kinh và Phẫu thuật thần kinh, Đại học Y khoa Quốc gia Matxcơva số một I.M. Sechenov kiêm Giám đốc Phòng khám Thần kinh A.Ya. Kozhevnikov. Ảnh: Sputnik.
Tiến sĩ Y khoa, Giáo sư Vladimir Anatolyevich Parfenov – Trưởng khoa Thần kinh và Phẫu thuật thần kinh, Đại học Y khoa Quốc gia Matxcơva số một I.M. Sechenov kiêm Giám đốc Phòng khám Thần kinh A.Ya. Kozhevnikov, trả lời một số câu hỏi về vấn đề này.
- Triệu chứng của bệnh Alzheimer là gì? Chúng ta nên chú ý điều gì trước tiên?
- Biểu hiện thường gặp nhất là hay quên. Người bệnh không nhớ các sự việc mới diễn ra trong ngày hoặc vài ngày trước, đôi khi lặp lại cùng một câu hỏi khiến người thân ngạc nhiên. Đây là dạng phổ biến nhất. Họ có thể nhớ khá rõ những chuyện đã xảy ra từ lâu, nhưng lại quên nhanh những sự kiện chỉ vừa mới diễn ra. Điều này gây lo lắng và hiểu lầm cho những người xung quanh. Một dạng ít gặp hơn là rối loạn ngôn ngữ: khó tìm từ, khó diễn đạt ý tưởng, khả năng hiểu giảm dần. Ngôn ngữ trở nên nghèo nàn, chậm chạp – đây là biến thể thứ hai của Alzheimer. Ngoài ra còn có các dạng khác nhưng hiếm gặp hơn.
Tiến sĩ Y khoa, Giáo sư Vladimir Anatolyevich Parfenov – Trưởng khoa Thần kinh và Phẫu thuật thần kinh, Đại học Y khoa Quốc gia Matxcơva số một I.M. Sechenov kiêm Giám đốc Phòng khám Thần kinh A.Ya. Kozhevnikov. Ảnh: Sputnik.
- Có đúng là căn bệnh này ngày càng phổ biến ở người trẻ tuổi không?
- Alzheimer có hai dạng: khởi phát sớm (trước 65 tuổi) và khởi phát muộn (sau 65 tuổi). Phần lớn, khoảng 85–90%, xảy ra ở người cao tuổi. Chỉ 10–15% khởi phát trước 65 tuổi. Các trường hợp sớm nhất có thể ở tuổi 45–50, song đây vẫn là ngoại lệ.
- Những nghiên cứu hiện nay đã có thể giúp phát hiện bệnh ở giai đoạn rất sớm, trước khi xuất hiện triệu chứng đúng không?
- Đúng vậy. Bệnh Alzheimer có một số dấu ấn sinh học đặc trưng. Người bệnh có thể được xét nghiệm dịch não tủy để tìm các chỉ số như nồng độ beta-amyloid thấp và protein tau cao. Đây là hai dấu hiệu quan trọng trong chẩn đoán. Những năm gần đây, chúng tôi thường xuyên tiến hành xét nghiệm này và kết quả cho thấy có thể xác nhận hoặc loại trừ chẩn đoán Alzheimer. Cần lưu ý rằng suy giảm trí nhớ còn có thể do các bệnh khác, chẳng hạn sa sút trí tuệ thùy trán - thái dương, chứng mất trí nhớ thể Lewy, sa sút trí nhớ mạch máu hoặc những bệnh hiếm gặp khác. Trong đó, Alzheimer chiếm khoảng 60–70% số ca, còn 30–40% là do các nguyên nhân khác.
- Chẩn đoán sớm có phải là yếu tố then chốt cho điều trị thành công bệnh Alzheimer?
- Hiện nay đã có nhiều cơ sở tuy nhiên cần nghiên cứu thêm trong tương lai để có thể khẳng định chắc chắn. Câu hỏi đặt ra là: chúng ta có thể làm gì cho người có nguy cơ cao hoặc đã xuất hiện triệu chứng ban đầu và được xác nhận bằng xét nghiệm? Có hai nhóm giải pháp. Thứ nhất là thay đổi lối sống: duy trì hoạt động thể chất thường xuyên (tùy chọn theo khả năng mỗi người), kết hợp rèn luyện trí não để kích thích nhận thức. Thứ hai là kiểm soát các yếu tố nguy cơ khác: giữ huyết áp, đường huyết, cholesterol ở mức ổn định, kiểm soát cân nặng, rối loạn giấc ngủ và rối loạn cảm xúc. Việc quản lý các yếu tố này giúp cải thiện chức năng nhận thức và làm chậm quá trình suy giảm.
- Ông có thể đề xuất thêm những biện pháp nào để giảm thiểu tác động của bệnh?
- Tôi vừa nêu các biện pháp không dùng thuốc. Song trong 20–30 năm qua, thế giới đã tập trung nghiên cứu các loại thuốc nhằm ngăn chặn sự tích tụ beta-amyloid trong não - một đặc trưng bệnh lý của Alzheimer. Hàng loạt nghiên cứu đã được tiến hành với quy mô lớn. Dù trong thời gian dài chưa đạt kết quả, nhưng hai năm trước, các thuốc Lecanemab và Donanemab ra đời, được chứng minh có thể làm chậm tiến triển bệnh ở giai đoạn sớm bằng cách tác động vào mảng amyloid. Tác dụng phụ không quá nghiêm trọng. Một số quốc gia đã bắt đầu sử dụng và dữ liệu ban đầu cho thấy có thể trì hoãn tiến triển suy giảm nhận thức từ 2-3 năm. Ngoài ra, các thuốc nhắm vào protein tau cũng đang trong giai đoạn nghiên cứu. Trong tương lai gần, những loại thuốc này có thể được phê duyệt tại Nga.
- Trong điều trị Parkinson có liệu pháp kích thích não sâu, liệu phương pháp này có thể áp dụng cho Alzheimer?
- Với Parkinson, thuốc chủ lực là levodopa - tiền chất dopamine. Đối với Alzheimer, hướng điều trị khác: bệnh nhân thường thiếu acetylcholine, nên bác sĩ dùng thuốc ức chế men acetylcholinesterase để làm tăng acetylcholine, hỗ trợ trí nhớ và nhận thức. Ngoài ra còn có Memantine, sử dụng cho giai đoạn trung bình đến nặng, giúp cải thiện trí nhớ và khả năng sinh hoạt hằng ngày. Những thuốc này đã được áp dụng từ lâu và khi kết hợp với các biện pháp khác, hiệu quả hỗ trợ bệnh nhân sẽ tốt hơn.
- Theo tôi hiểu, bệnh Alzheimer hiện tại chưa có thuốc chữa khỏi hoàn toàn, các phương pháp điều trị hiện tại chỉ tập trung vào việc làm chậm sự tiến triển của bệnh và cải thiện chất lượng cuộc sống cho người bệnh. Liệu có thể nói rằng căn bệnh này không thể chữa khỏi vì chúng ta chưa hiểu rõ nguyên nhân gây bệnh không?
- Ở một mức độ nào đó, đúng là vậy. Đã có rất nhiều nghiên cứu được thực hiện, nhưng vẫn còn không ít câu hỏi chưa được giải đáp. Chúng ta chỉ mới phát hiện ra những thay đổi bệnh lý trong não, đặc biệt là sự tích tụ của hai loại protein: beta-amyloid và protein tau. Nhưng có thể còn những thay đổi khác ẩn giấu đằng sau điều này mà chúng ta chưa phát hiện ra. Nếu phát hiện ra những thay đổi này, chúng ta có thể giúp bệnh nhân hiệu quả hơn nữa. Một số trường hợp bệnh Alzheimer có liên quan đến các gen di truyền, đặc biệt là ở những người có triệu chứng khởi phát sớm. Nhưng các loại thuốc tác động ở cấp độ gen vẫn chưa được phát triển.
- Đã có bệnh nhân nào được hưởng lợi từ các phương pháp này chưa?
- Chúng tôi có những bệnh nhân không có hoặc chỉ tiến triển nhẹ của bệnh, những người mà chúng tôi theo dõi trong một thời gian rất dài, từ 5-10 năm. Không còn nghi ngờ gì nữa họ mắc bệnh Alzheimer. Nhưng bệnh Alzheimer tiến triển theo nhiều cách khác nhau. Nếu nói về tỷ lệ mắc bệnh, rõ ràng là ở độ tuổi 90 trở lên, một nửa số người mắc bệnh này. Ở độ tuổi 80 trở lên, 20–30% số người mắc bệnh. Không nên sợ căn bệnh này, điều mà chúng ta thường làm. Nên nói về những cách tiếp cận tối ưu đối với lối sống: những người tuân theo một lối sống lành mạnh có thể giữ được trí nhớ tốt hơn trong thời gian dài hơn. Có những ví dụ khi suy giảm nhận thức là do những lý do khác gây ra, nhưng bệnh nhân nghĩ rằng đó là bệnh Alzheimer. Ví dụ, đây có thể là một rối loạn cảm xúc, điều xảy ra rất thường xuyên; các cơn đau mãn tính khác nhau - bác sĩ sẽ tìm ra nguyên nhân, điều chỉnh nó và các chức năng nhận thức sẽ được cải thiện.
- Việc có người cao tuổi trong gia đình mắc bệnh Alzheimer là một vấn đề khó khăn và có thể gây ra nhiều lo lắng cho người thân. Chúng ta nên cư xử với họ như thế nào?
- Đây là vấn đề phức tạp, đòi hỏi sự hỗ trợ từ bác sĩ. Người bệnh cần duy trì hoạt động và tham gia vào các sinh hoạt phù hợp. Một tình huống phổ biến là bệnh nhân lớn tuổi ở nhà một mình, ban ngày ngủ nhiều và ban đêm lại thức, gây khó khăn cho người thân. Trong trường hợp này, dùng thuốc an thần là sai lầm, vì có thể gây tổn hại không hồi phục. Giải pháp là tổ chức các hoạt động ban ngày để bệnh nhân bận rộn, duy trì tỉnh táo, từ đó ngủ tốt hơn vào ban đêm. Gia đình cũng cần được hướng dẫn cụ thể về cách giao tiếp và chăm sóc bệnh nhân.
Theo Sputnik
Nguồn Tin Tức TTXVN : https://baotintuc.vn/y-te/chuyen-gia-noi-ve-cac-phuong-phap-hien-dai-giup-lam-cham-su-tien-trien-cua-benh-alzheimer-20250825164933547.htm