Nhà thờ họ Trần Đình nay thuộc xã Bình Minh, tỉnh Nghệ An.
May mắn là giữa chốn quan trường, hầu hết sự nghiệp của ông gắn bó với công việc quản lý, góp phần chấn hưng sự học đương thời.
Trần Đình Phong (1843 - 1909), người thôn Yên Mã, xã Thanh Khê, tổng Thái Trạch, huyện Yên Thành, phủ Diễn Châu, tỉnh Nghệ An (nay là xã Bình Minh, Nghệ An). Lúc nhỏ, ông có tên Bằng và sớm thể hiện là cậu bé thông minh, say mê việc học, được thầy Bùi Huy Trân - người cùng làng trực tiếp dạy dỗ.
Khát khao làm nghề dạy học
Chuyện xưa kể rằng, một hôm có người ở xa nghe tiếng thầy Bùi Huy Trân liền mang trầu rượu đến để xin thầy bài chúc thọ bố. Thầy giao việc đó cho học trò Bằng và hẹn sẽ sửa lại sau. Nhưng khi bài văn viết xong, thầy Bùi xem lại và rất ngạc nhiên về tài văn chương của cậu nên quyết định cứ để nguyên như thế không sửa chữ nào.
Tuy thông minh nổi danh từ nhỏ, nhưng trải qua 2 kỳ thi Hương vào năm Mậu Thìn (1868) và năm Canh Ngọ (1870), Trần Đình Phong chỉ đỗ Tú tài. Đến năm Bính Tý (1876), ông tiếp tục ứng thí, đỗ Cử nhân. Ba năm sau, tức năm Kỷ Mão (1879), triều đình mở ân khoa, Trần Đình Phong đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ đồng xuất thân.
Tương truyền rằng, trước tin Trần Đình Phong đỗ Tiến sĩ đã làm các làng trong, tổng, huyện vui mừng khôn xiết. Theo lệ của triều đình, cả tổng sẽ tổ chức rước vị tân khoa vinh quy bái tổ. Trong hàng người nườm nượp cờ hoa, ông nghè không ngồi kiệu, ngồi xe mà đi bộ, trò chuyện với dân làng. Trần Đình Phong nhìn thấy thầy Bùi Huy Trân đi ở phía sau, ông liền đứng lại đợi đến khi thầy đến nơi thì nhường bước để thầy học của mình lên trước rồi mới bước tiếp theo sau.
Dù đỗ đạt cao nhưng Tiến sĩ Trần Đình Phong muốn ở lại địa phương để làm một thầy đồ dạy học. Tuy nhiên, luật triều đình khó cưỡng nên ông phải tuân lệnh nhận chức Biên tu lịch lý tại kinh đô Huế. Ít lâu sau, ông được thăng làm Tri phủ Kiến An kiêm Lý cả phủ Bình Giang (Hải Dương) nên được gọi là “Lưỡng tri phủ”.
Tuy nhiên, dù đi đâu, làm chức vụ gì, Tiến sĩ Trần Đình Phong cũng không quên khao khát được dạy học. Vì thế, sau khi nhậm chức một thời gian, với chủ trương khai trí, ông đã khiến việc học hành ở hai phủ Kiến An và Bình Giang được mở mang, trường lớp đua nhau mở, nho sĩ được trọng dụng.
Năm Ất Dậu (1885) mẹ mất, Trần Đình Phong về quê cư tang mẹ, mở trường dạy học cho con em địa phương và tính sẽ không ra làm quan nữa. Tại quê nhà, khi nghe tin vua Hàm Nghi hạ chiếu Cần vương, ông đã cùng Tiến sĩ Nguyễn Xuân Ôn (người làng Quần Phương, thuộc huyện Diễn Châu) và các sĩ phu trong vùng hưởng ứng, tập hợp nghĩa binh phất cờ khởi nghĩa.
Dù bận rộn với nhiều công việc và với thế sự ngổn ngang nhưng không bao giờ ông quên việc dạy học. Nhờ tiếng tăm, nhiều con em nơi xa cũng được cha mẹ gửi đến học. Ông xem việc giảng dạy là nhiệm vụ, không ngừng động viên, giúp đỡ học trò nhưng không nhận bất cứ khoản tiền đóng góp nào.
Năm 1888, vua Đồng Khánh ra chỉ dụ triệu ông vào kinh làm Giám khảo kỳ thi Hương ở Hà Nam nhưng ông lấy lý do đau yếu để từ chối. Ba năm sau (1891), vua Thành Thái lại cử ông làm Giám khảo kỳ thi Hương ở Hà Nam. Chấm thi xong, ông được bổ làm Tri phủ Thọ Xuân (Thanh Hóa).
ên cạnh công việc lo ổn định đời sống nhân dân, phát triển sản xuất, chống nạn nhũng nhiễu ức hiếp dân lành, ông đã sức cho các tổng huyện phải chăm lo cho các trẻ nhỏ được học hành. Bản thân quan phủ cũng kèm cặp một số môn sinh tại nhiệm sở.
Nhà thờ họ Trần Đình nay thuộc xã Bình Minh, tỉnh Nghệ An.
Đưa xứ Quảng lên đầu bảng khoa danh
Năm Giáp Ngọ (1894), Trần Đình Phong được thăng làm Thị giảng học sĩ. Năm 1898, triều đình bổ ông làm Đốc học Quảng Nam. Vào vị trí mà bản thân yêu thích, ông đem hết nhiệt huyết và tài năng để đóng góp cho công cuộc phát triển văn hóa, giáo dục. Ông chỉnh đốn lại trường ốc, sắp xếp đội ngũ thầy dạy, chú ý đến những người có tài, có đức. Ông còn đến các vùng lân cận tuyển chọn học sinh xuất sắc cho vào học ở trường Đốc Thanh Chiêm như trường hợp Trần Quý Cáp (lúc nhỏ tên Trần Nghị).
Hàng tháng nhà trường định kỳ giảng sách cho học sinh, quan Đốc học vừa trông coi việc học cả tỉnh, vừa tham gia giảng tập. Đến ngày giảng sách “Học quan mặc áo khăn ngồi trên nhà học, học trò mặc áo khăn ngồi im lặng nghe giảng”. Thỉnh thoảng, quan Đốc học cũng mở các buổi giảng tập về những điều cao siêu trong ý nghĩa kinh sách.
Vào các ngày mùng 3, mùng 9, 17, 25 mỗi tháng, quan Đốc học ra đầu bài, học sinh đem về nhà làm đến kỳ hạn nộp bài (gọi là văn kỳ) hoặc làm ngay tại trường, trong một ngày phải xong (gọi là văn nhật khắc). Sau khi chấm, học sinh đến trường để nghe quan Đốc học nhận xét về các bài làm hoặc bình những đoạn văn hay, những bài đặc sắc.
Đôi khi các quan tỉnh yêu thích văn học cũng tham gia duyệt quyển bình văn hầu làm phong phú thêm kiến thức cho học sinh. Trong tập “Lô Giang tiểu sử”, nhà nho Nguyễn Mại cho biết: “Ta tuy làm chánh chức nhưng khi rảnh lui tới trường học cùng với ông Đốc học Trần Đình Phong duyệt quyển bình văn”.
Theo giới nghiên cứu lịch sử, 12 năm làm Đốc học Quảng Nam (1893 - 1905), Tiến sĩ Trần Đình Phong đã đào tạo nhiều thế hệ nho sinh, trong đó có 6 người nổi tiếng là Phạm Liệu, Phan Quang, Nguyễn Đình Hiến, Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng (Huỳnh Hanh) và Trần Quý Cáp.
Dưới sự điều hành và dạy dỗ của ông, học trò Quảng Nam đạt được những kỳ tích ở các khoa thi làm cho giới khoa bảng cả nước ngày đó ngưỡng mộ. Nổi bật là ở khoa thi năm Mậu Tuất (1898), niên hiệu Thành Thái thứ 10, Quảng Nam có 3 người đỗ Tiến sĩ (Phạm Liệu, Phan Quang, Phạm Tuấn) và 2 người đỗ Phó bảng (Ngô Chuân, Dương Hiển Tiến).
Cả 5 vị đỗ đại khoa trong khoa thi này được vua ban áo mão vinh quy, nhân dân Quảng Nam đón rước long trọng, tôn xưng là “Ngũ phụng tề phi”. Quan Tổng đốc Quảng Nam lúc ấy là Đào Tấn mở tiệc chiêu đãi tại Khán Hoa Đình ở bến sông Vĩnh Điện, nhằm xiển dương thành tích học tập, nêu gương sáng cho nhà nhà noi theo.
Ngoài ra, khoa thi Hương năm Canh Tý (1900), tại trường thi Thừa Thiên, sĩ tử Quảng Nam đỗ Cử nhân chiếm tỉ lệ cao nhất so với các tỉnh, và từ thủ khoa đến vị trí thứ 4 đều là học trò Quảng Nam: Huỳnh Thúc Kháng, Nguyễn Đình Hiến, Phan Châu Trinh, Lê Bá Trinh.
Khoa thi Đình năm Tân Sửu (1901), Quảng Nam có 4 người đỗ Phó bảng trong khi các tỉnh khác chỉ có 1 - 2 người. Bốn vị phó bảng đó là: Nguyễn Đình Hiến, Võ Vỹ, Nguyễn Mậu Hoán, Phan Châu Trinh.
Khoa Giáp Thìn (1904), Trần Quý Cáp và Huỳnh Thúc Kháng cùng đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân. Riêng Huỳnh Thúc Kháng đỗ Giải Nguyên (đỗ đầu kỳ thi Hương) khoa Canh Tý (1900) và đỗ Hội nguyên (đỗ đầu kỳ thi Hội) khoa Giáp Thìn (1904) nên được gọi là “Song nguyên”.
Tiến sĩ Trần Đình Phong không chỉ dạy văn chương, mà còn truyền thụ cho học trò lòng yêu nước thiết tha, hun đúc tinh thần sẵn sàng dấn thân cứu nước. Các lãnh tụ của phong trào Duy Tân đầu thế kỷ 20 như Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp, Lê Bá Trinh, Phan Thúc Duyên... đều là những môn sinh ưu tú của ông.
Các học trò của ông ở xứ Quảng thấm nhuần tư tưởng cách tân, đổi mới việc học, đi tiên phong trong phong trào Duy Tân, lập Hội và các trường học theo lối học mới thực tế, bỏ lối học cũ lỗi thời. Năm 1906, Phan Châu Trinh ở Nhật về, ra Hà Nội cùng các đồng chí lập trường Đông Kinh nghĩa thục theo chủ ý đã dự định, khi họ mật họp ở nhà Nguyễn Thành từ năm 1904 và trước nữa. Phạm vi hoạt động của phong trào Duy Tân lan ra khắp cả nước, có mở lớp học Quốc ngữ, chữ Pháp và các hoạt động hội thương, hội nông…
Bản rập văn bia Tiến sĩ khoa thi năm Kỷ Mão (1879) - khoa Trần Đình Phong đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân.
Chấn hưng giáo dục, công tạc sử xanh
Năm Canh Tý (1900), vua Thành Thái lại cử Trần Đình Phong làm Phó chủ khảo kỳ thi Hương tại Thanh Hóa. Với cương vị đó, ông đề nghị triều đình cử cụ Nguyễn Sinh Sắc (lúc này đang là Cử nhân) tọa giám sung vào bộ phận sơ khảo. Khoa thi Hội năm sau (1901), Nguyễn Sinh Sắc lại ứng thí và Trần Đình Phong lại được sung vào ban duyệt quyển của kỳ thi.
Khi biết Nguyễn Sinh Sắc vì bài làm có chỗ không hợp với ý của triều đình, nhiều giám khảo chủ trương đánh hỏng thì Trần Đình Phong đã cùng Cao Xuân Dục đề nghị nhà vua cứ để cho ông được vào thi Đình. Nể lời Cao Xuân Dục đương là Thượng thư bộ Học và Trần Đình Phong là bậc trưởng lão nên nhà vua chấp thuận. Nhờ vậy mà Nguyễn Sinh Sắc sau đó đã đỗ Phó bảng.
Năm 1905, Tiến sĩ Trần Đình Phong được thăng làm Tế tửu Quốc Tử Giám. Ông chấn chỉnh lại đội ngũ Tư nghiệp kết hợp với Sùng chính viện và Thư viện quốc gia biên soạn lại giáo trình, cải cách lối học và từ năm 1906 đưa các môn học mới như: Cách trí, Toán pháp... vào chương trình giáo dục.
Vừa là thầy giáo trực tiếp giảng dạy, vừa làm nhiệm vụ quản lý, Tiến sĩ Trần Đình Phong đã góp công đưa nền giáo dục nước nhà và một số địa phương tiến lên những bước mới. Quá trình giảng dạy của ông cũng góp phần đào tạo cho đất nước nhiều tri thức ưu tú, tài năng, yêu nước.
Do điều kiện sức khỏe và tuổi tác, từ năm Mậu Ngọ (1908), ông xin thôi làm Tế tửu Quốc Tử Giám mà chỉ giữ chức Biên tu Quốc sử. Lúc này, ông dành thời gian khảo cứu trước tác và biên soạn một số cuốn sách rất có giá trị như “Quốc triều luật lệ toát yếu” gồm hai tập “Tiền biên” và “Chính biên” tóm tắt đầy đủ ý tứ của Bộ luật nhà Nguyễn được soạn từ thời Gia Long và ghi lại các dấu mốc sự kiện lịch sử triều Nguyễn từ những ngày đầu thành lập vương triều.
Theo gia phả dòng họ, Đốc học Trần Đình Phong không chỉ để lại cho đời nhiều học trò tài đức mà còn nuôi dưỡng giáo dục những người con. Ông có hai người vợ, bà vợ đầu là Phan Thị Tiêu sinh được hai người con gái thì bà ốm nặng và mất ở tuổi ngoài 30. Cả hai người con của bà đều đỗ Tú tài. Bà kế là Hồ Thị Uẩn sinh được 12 người con: 9 trai, 3 gái, tất cả đều được ăn học chu đáo và đều đỗ Tú tài và Cử nhân. Điều này cũng nói lên là quan điểm về bình đẳng giới rất tiến bộ thời kỳ đó.
Trong số 14 người con, có nhiều người thành đạt và tham gia các hoạt động yêu nước, như con trai đầu Trần Đình Doãn đỗ Cử nhân khoa Canh Tý (1900), Cử nhân Trần Đình Diệm là đại biểu viện Dân biểu Trung Kỳ, Cử nhân Trần Đình Phiên hoạt động cho tờ báo Tiếng Dân do cụ Huỳnh Thúc Kháng chủ sự…
Năm Kỷ Mão (1909), Tiến sĩ Trần Đình Phong mất tại Huế khi đang tại nhiệm, hưởng thọ 76 tuổi. Triều đình truy tặng ông chức Lễ bộ Thị lang. Theo nguyện vọng của ông, nhà vua đã cho một đội thuyền buồm đưa thi hài về an táng tại quê nhà. Buổi chôn cất, các nghi thức tang lễ được thực hiện theo đúng tiêu chuẩn dành cho một bậc Thượng thư.
Các học trò đã cùng nhau đóng góp tiền của để sửa sang lại nhà thờ, xây mộ và dựng bia cho thầy. Tiến sĩ Huỳnh Thúc Kháng đã được cử thay mặt cho các môn sinh biên soạn bài văn khắc lên bia đá ca ngợi công đức của thầy Trần Đình Phong, trong đó có câu: “Anh khí của đất Hồng Lam đã hun đúc nên Tiên sinh. Sử sách đời đời còn soi sáng”.
Khi nghe tin thầy mất, môn sinh ở các nơi đều đổ về Huế để cùng đưa thi hài thầy Trần Đình Phong về quê. Nhiều năm liền sau đó, cứ đến dịp giỗ thầy là học trò ở các nơi lại kéo về Yên Mã để tưởng nhớ công lao và đức độ của thầy. Họ đã làm đôi câu đối điếu có nội dung ví thầy Đốc học Trần Đình Phong như Hán Dũ và Đổng Trọng Thư trên Trung Quốc: “Tế tửu Hàn công quốc sử bất tịch mịch hĩ/ Bác sĩ Đổng thị học giả giai sư tôn chi” (Tế tửu như Hàn Công, danh ghi vào quốc sử/ Tài cao tựa Đổng Trọng, tôn gọi bậc sư thầy).
Trần Siêu