Chuyện học xưa và nay: Vị đại khoa 'thà bị chém không chịu nhục!'

Chuyện học xưa và nay: Vị đại khoa 'thà bị chém không chịu nhục!'
2 ngày trướcBài gốc
Nhà thờ Tiến sĩ Nguyễn Xuân Ôn tại quê hương Diễn Châu.
Nguyễn Xuân Ôn (1830 - 1889) hiệu Ngọc Đường, biệt hiệu Hiến Đình, quê làng Quần Phương, xã Lương Điền, tổng Thái Xá, huyện Đông Thành, nay là xã Diễn Thái (Diễn Châu, Nghệ An). Từ nhỏ, vốn thông minh ham học, nhưng vì ông sinh ra trong một gia đình nhà Nho nghèo, mẹ mất sớm phải đến ở với bà nội, nên đi học muộn.
Giai thoại cậu học trò xấu trai
Theo giai thoại dân gian, lúc trẻ Nguyễn Xuân Ôn học giỏi nổi tiếng, nhưng nhà nghèo lại không đẹp trai. Gia đình muốn dạm một cô gái đẹp trong vùng mà ông ưng ý. Cô gái biết học trò này giỏi giang cũng thích, nhưng nghe nói xấu trai nên rất đắn đo.
Một hôm, cả nhà cô gái đi vắng, bỗng có một thầy nho mang đến gói quà tự xưng là con cụ cử ở Phù Diễn, nói với cô gái: “Tôi với cô là bạn con dì. Mẹ tôi và mẹ cô là chị em họ. Ở khác huyện, nên ít có dịp qua lại. Hôm nay có việc vào tỉnh, tôi ghé thăm tưởng được gặp dì, hóa ra dì đi vắng”.
Cô gái thấy là họ hàng, vội mời thầy nho vào nhà, têm trầu, rót nước. Ngồi nói chuyện qua loa một lúc, anh ta thân mật hỏi chuyện riêng của cô: “Nghe nói cậu Ôn bên Quần Phương, Đông Thành muốn đi dạm cô phải không? Được đó”. Cô gái e thẹn, cúi đầu không đáp. Ông “anh họ” lại nói:
“Tôi là bạn thân cậu ta. Cậu ta học giỏi lắm, cả tỉnh, cả huyện đều biết. Lấy cậu ấy thì chắc chắn không bà nghè cũng bà cử cô ạ. Tôi nghe nói người ta bảo vì cậu ta xấu trai nên cô còn nấn ná phải không? Xấu trai thì cũng như tôi chứ gì?”. Cô gái e thẹn, mãi sau mới cười, ngập ngừng: “Anh đừng nói thế. Anh mà xấu trai à?”.
Hình như chỉ cốt nghe có thế, thầy nho đứng dậy cáo từ. Cô gái cố mời anh ở lại gặp dì, nhưng anh xin từ chối vì còn nhiều việc bận. Buổi chiều, cô gái kể lại cho bố mẹ nghe chuyện và tả hình dáng “ông anh con dì”. Bố cô liền vỗ đùi: “Con dì con già ở mô! Chính hắn là thằng Ôn đó. Rõ ràng mi nói hắn không xấu trai nhé. Mai mốt bên ấy đến dạm là ta nhận lời ngay!”.
Sách “Đại Nam liệt truyện” chép rằng, lúc còn trẻ Nguyễn Xuân Ôn rất thông minh. Nhà nghèo, không có tiền mua sách, thường đến nhà bạn học chung, hoặc mượn mang về nhà đọc và chỉ đọc qua một lượt đã thuộc. Khi làm văn, cầm bút lên là viết xong. Có lúc viết về một đề tài, thường làm năm, sáu thể loại văn, thơ ý tứ, bố cục khác nhau, nội dung đều hay.
Ngoài ra, ông còn có sở thích bày người khác làm văn trong các dịp thi cử. Hàng năm, ở phủ, huyện có mở kỳ thi khảo khóa cho học trò trường làng, ông dẫn đám học trò mình dạy dỗ tham gia khảo thí. Ông cho dựng một cái lều lớn, rồi ngồi giữa lều, học trò ngồi xung quanh. Xong xuôi, ông bắt đầu đọc, đọc từ bài này đến bài khác, đọc để học trò chép lại những lời bình văn, ý thơ của mình. Có vẻ như chữ nghĩa đã chứa sẵn trong đầu chỉ đến lúc bật ra.
Tuy sức học nổi tiếng khắp vùng, nhưng con đường cử nghiệp của Nguyễn Xuân Ôn khá lận đận. Mặc dù đỗ Tú tài năm 18 tuổi, nhưng mãi tới khoa thi Đinh Mão (1867) mới đỗ Cử nhân khi đã 42 tuổi.
Chân dung Tiến sĩ Nguyễn Xuân Ôn.
Dâng sớ can vua, triều đình bãi chức
Bốn năm sau khi đỗ Cử nhân, khoa Tân Mùi (1871), Nguyễn Xuân Ôn tiếp tục ứng thí, đỗ Tiến sĩ. Trong kỳ thi này, cùng đỗ Tiến sĩ với ông còn có Tam nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến và Phó bảng Lê Doãn Nhã - người bạn đồng hương, sau này cộng tác đắc lực với ông trong cuộc khởi nghĩa.
Ở Diễn Châu có giai thoại truyền rằng, Nguyễn Xuân Ôn và Lê Doãn Nhã cùng đi thi. Cơm nước xong, từ giã chủ quán ra khỏi nhà hàng, Lê Doãn Nhã giật mình, chỉ tay: “Kìa, có rắn trườn sang!”. Đúng lúc ấy, có con rắn to từ bụi rậm bên kia đường bò ra. Nguyễn Xuân Ôn phẩy tay: “Điềm may đấy. Ta cứ lên đường!”.
Ông chủ quán tiễn chân hai thầy nho ra cổng, nghe nói, cười bảo: “Xin chúc mừng trước hai thầy, chắc chắn lần này hai thầy thi đỗ”. “Sao ông dám chắc thế?” - hai thầy nho hỏi lại. Chủ quán đáp: “Thưa, nghe khẩu khí hai thầy thì biết. Để rồi xem tôi nói có đúng không. Tôi còn chắc chắn thầy Nguyễn Xuân Ôn đậu cao hơn thầy Lê Doãn Nhã”.
Quả nhiên, lời đoán của ông chủ nhà hàng là đúng. Khoa thi năm ấy, Nguyễn Xuân Ôn đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân, Lê Doãn Nhã đỗ Phó bảng. Hôm vinh quy, hai ông về ghé vào nhà hàng cảm ơn ông chủ quán. Ông chủ quán vui mừng, giảng giải:
“Tôi cũng chẳng phải bói toán giỏi giang gì, chỉ thấy hai thầy khí sắc hồng hào, nói năng thông suốt thì chắc là người giỏi mà thôi. Có điều thú vị là hôm nọ quan Phó bảng thấy rắn nói là: Trườn sang, thì hôm nay ngài lại về quê Tràng Sơn. Còn quan nghè nói là lên đường, nay ngài lại vinh quy ở quê Lương Điền. Thế không phải là có điềm báo trước hay sao?”.
Tiến sĩ Nguyễn Xuân Ôn để lại nhiều tác phẩm rất có giá trị.
Sau khi đậu Tiến sĩ, Nguyễn Xuân Ôn những mong đem tài đức của mình ra thi thố với đời. Nhưng vì tính tình cương trực, chất phác, không chịu quỵ lụy, luồn lọt quan trên, nên bị kéo dài thời gian tập sự ở trường Hậu Bổ và làm Hàn lâm Biên tu tới 3 năm. Năm 1874, ông được bổ làm Tri phủ phủ Quảng Ninh, thuộc tỉnh Quảng Bình, sau đó được cải bổ làm Đốc học Bình Định. Năm 1875, được triệu về triều giữ chức Ngự sử.
Tình hình đất nước lúc này rất rối ren, thực dân Pháp lộ rõ dã tâm thôn tính toàn bộ nước ta. Nguyễn Xuân Ôn nhiều lần dâng kế sách ngăn chặn với những lời lẽ cảm động và khẩn thiết. Trong một tờ biểu năm 1878, ông viết: “Thần cúi xin chọn người hiền giao phó việc nặng; dung nạp dân để nuôi quân gia; yên ổn mình để dành chủ động.
Đừng chỉ cậy vàng lụa mà bỏ giáp binh; đừng chỉ lo tiền bạc mà quên bảo chướng. Nhân núi sông hiểm yếu, mượn đồn điền mà sửa thành trì; xét đất đai phì nhiêu, khuyên cày cấy đê thêm tích trữ. Lệnh quân phải nghiêm túc; chính dân phải khoan hồng, làm sao cho dư sức, dư của, nhân dân vui thú sinh tồn, đồng trạch đồng cừu, quân lính cam lòng chiến đấu: Chặn lấy tay mà tóm lấy họng, thắng lợi ta đã nắm phần”.
Những lời cảnh tỉnh của ông không những không được xem xét, mà còn bị triều đình quở trách. Sợ ở lâu tại kinh đô sẽ thêm chuyện nên vua đẩy ông vào làm Án sát Bình Thuận. Trước thế cuộc lâm nguy, triều đình nhà Nguyễn vô cùng lúng túng, không dựa vào dân để chống giặc mà còn ra lệnh cấm đoán, trách phạt quan lại. Tiêu biểu là Nguyễn Xuân Ôn bị điều từ Bình Thuận về kinh làm Biện lý Hình bộ để triều đình dễ bề quản lý.
Càng sống trong cảnh bị o ép, ông càng thể hiện khí chất. Năm 1883, ông tâu điều trần các việc nên làm, gồm 4 việc: Xin hợp các tỉnh nhỏ thành trấn lớn; dời các tỉnh thành; bớt tiêu dùng để sung vào quân nhu; dứt việc hòa hảo với Pháp để khích lệ lòng người. Sau nhiều lần dâng sớ đề nghị nhà vua tổ chức kháng chiến mà không được chấp thuận, ông bị triều đình cách chức cho về quê (1883).
Khu mộ Tiến sĩ Nguyễn Xuân Ôn.
“Chém thì chém, ta quyết không chịu nhục!”
Ba năm ở quê nhà (1883 – 1885), Nguyễn Xuân Ôn dốc sức gom góp nhân tài, vật lực chờ đợi thời cơ. Tháng 7/1885, kinh thành Huế thất thủ, vua Hàm Nghi xuất bôn rồi hạ dụ Cần Vương. Nguyễn Xuân Ôn được phụ chính Tôn Thất Thuyết (thay mặt vua cử làm An - Tĩnh Hiệp thống quân vụ đại thần, có nhiệm vụ thống lĩnh nghĩa quân hai tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh giúp vua, cứu nước).
Ông cùng Nguyễn Nguyên Thành, Lê Doãn Nhã, Đinh Nhật Tân lập chiến khu ở xã Đồng Thành thuộc huyện Yên Thành (Nghệ An). Nơi vùng núi đó, Nguyễn Xuân Ôn chọn một thung lũng làm nơi xây dựng Đại đồn Đồng Thông. Đại đồn rộng khoảng 30ha xung quanh có núi non bao bọc. Từ đây có thể đi ngược lên phía Tây vào sâu đến núi Trọc cao gần 500m, hoặc có thể vượt qua dốc Lội đi về phía Tây Bắc vào vùng Động Đình, Nhà Đũa.
Buổi đầu nghĩa quân lên đến khoảng hai ngàn người, hầu hết là nông dân trai tráng, có nhiều người chỉ huy giỏi quân như Đề Kiều, Đề Mậu, Đề Nhục, Lãnh Bảng, Lãnh Thừu, Lãnh Tư, Lãnh Tư, Đốc Nhạn... Ở đây, nghĩa quân ngày đêm luyện tập võ nghệ, rèn vũ khí và sản xuất lương thực.
Kể từ đó, căn cứ Đồng Thông đã góp phần không nhỏ trong công cuộc chống Pháp lúc bấy giờ. Và mặc dù tuổi cao, sức yếu nhưng Nguyễn Xuân Ôn luôn dũng cảm, đi đầu trong các trận đánh với quân Pháp, gây cho địch nhiều thiệt hại. Cuộc khởi nghĩa đang trên đà thắng lợi thì chẳng may Nguyễn Xuân Ôn bị thương. Trong trận Xóm Hố (Văn Thành), ông bị thương lần thứ hai, vết thương rất nặng, phải lui về điều trị tại xã Mã Thành (Yên Thành).
Ngày 2/4 năm Đinh Hợi (1887), nhờ có bọn tay sai chỉ điểm, thực dân Pháp đã bao vây và bắt được Nguyễn Xuân Ôn khi đang điều trị vết thương. Chúng giải ông về thành Diễn Châu, sau đó giải về Vinh, rồi đưa về kinh đô Huế. Ở đâu, chúng cũng tìm mọi cách để dụ dỗ mua chuộc, nhưng trước sau ông vẫn giữ trọn khí tiết. Ông nói với tên công sứ Pháp: “Ông muốn ta quỳ lạy chứ gì? Chém thì chém, ta quyết không chịu nhục!”.
Không khuất phục được, chúng giam lỏng ông tại Huế. Năm 1889, Nguyễn Xuân Ôn bị ốm nặng. Phần vì tuổi cao sức yếu, phần vì không được chạy chữa thuốc thang, ông qua đời ở tuổi 64.
Biến cố Tiến sĩ Nguyễn Xuân Ôn qua đời khiến nhiều người thương tiếc. Ngày rước linh cữu về quê, hàng vạn người đưa đón dọc đường. Quan đại thần Cao Xuân Dục có câu đối viết: “Công thị công phi, sự đãi bách niên phương định luận/ Cầu thần cầu tử, đạo tồn nhất thất cánh nan ngôn” (Bàn chuyện đúng sai, đợi đến trăm năm rồi sẽ rõ/ Nghĩ đạo thần tử, việc trong một nhà cũng khó nói ra). Quan phụ chính Hoàng Cao Khải cũng viết: “Cố quốc giang sơn quy hạc lệ/ Cô thần tâm sự vịnh thiền ngâm” (Non sông nước cũ rơi dòng lệ hạc/ Tâm sự tôi cô vịnh áng thơ ve).
Nguyễn Xuân Ôn để lại nhiều trước tác, lúc còn đèn sách, văn thơ của ông thường thể hiện ý chí, hoài bão của một người hùng tâm tráng khí, khát vọng giúp nước cứu đời. Khi đương quan, trong bối cảnh đất nước bị xâm lược, ông dùng ngòi bút để châm biếm, đả kích những tiêu cực, thể hiện nỗi phẫn uất, ca ngợi khí phách của những người vì nước không sợ cái chết. Tiêu biểu như: “Nhân duyệt quán đoàn dũng ở xã Mỹ Lộc, giản Bang biện cử nhân Võ Bá Liêm” (Nhân duyệt quân ở xã Mỹ Lộc, làm gửi cho Bang biện là ông cử Võ Bá Liêm), “Thu nhật cảm tác” (Ngày thu cảm hoài), “Trường An hoài cổ” (Nhớ cảnh cũ Tràng An), “Văn tứ trấn thất thủ cảm tác” (Làm khi nghe bốn trấn thất thủ), “Cảm thuật” (Cảm khái thuật ra), “Điếu trận vong tướng sĩ” (Viếng tướng sĩ chết trận)...
Năm 1992, mộ và nhà thờ Tiến sĩ Nguyễn Xuân Ôn được công nhận di tích văn hóa lịch sử cấp quốc gia. Ngày nay, tên của Tiến sĩ Nguyễn Xuân Ôn được nhiều địa phương trên cả nước chọn đặt tên cho đường phố và trường học để tưởng nhớ công ơn và khí phách bất khuất của một nhà khoa bảng yêu nước.
Đầu tháng 5/2025, UBND xã Diễn Thái (Diễn Châu, Nghệ An) phối hợp với dòng họ Nguyễn Xuân tổ chức kỷ niệm 200 năm Ngày sinh Tiến sĩ Nguyễn Xuân Ôn nhằm ôn lại truyền thống hiếu học, khơi gợi tình yêu quê hương đất nước từ tấm gương của một vị đại khoa có nhiều công lao. Đại diện ngành văn hóa Nghệ An đã đánh giá Tiến sĩ Nguyễn Xuân Ôn là nhà khoa bảng uyên bác, vị quan thanh liêm và đặc biệt là nhà yêu nước, trí thức lớn trong phong trào Cần Vương; để lại tấm gương sáng về đạo đức, học vấn, tinh thần trách nhiệm với dân tộc.
Trần Siêu
Nguồn GD&TĐ : https://giaoducthoidai.vn/chuyen-hoc-xua-va-nay-vi-dai-khoa-tha-bi-chem-khong-chiu-nhuc-post732728.html