Bà ĐBT (phường An Hội Đông, TP.HCM) chuyển nhầm 25 triệu đồng vào tài khoản của người khác từ tháng 8-2022; suốt 3 năm qua, bà T tìm cách “xin” lại tiền của mình nhưng mọi chuyện dường như đi vào ngõ cụt.
Chuyển nhầm 25 triệu đồng, 3 năm chưa thể lấy lại
Phản ánh đến báo Pháp Luật TP.HCM, bà T cho biết: Ngày 19-8-2022, bà thao tác chuyển 25 triệu đồng từ tài khoản ngân hàng để nộp viện phí phẫu thuật cho cha. Thế nhưng, chỉ vì bấm nhầm một số trong dãy số tài khoản mà bà T đã chuyển nhầm viện phí vào tài khoản cá nhân của người khác cũng thuộc hệ thống ngân hàng này.
Ngay sau khi phát hiện, bà T liên hệ ngân hàng đề nghị được hỗ trợ thu hồi. Phía ngân hàng tiếp nhận, thông báo thời gian xử lý từ 30 - 45 ngày làm việc. Nếu ngân hàng không thể thu hồi, bà phải làm việc với cơ quan công an để được giải quyết.
Bà T kiên trì chờ đợi với hy vọng được nhận lại tiền. Tuy nhiên, sau 3 năm chờ đợi thì bà nhận được văn bản phúc đáp của ngân hàng cho biết trong quá trình phối hợp, hỗ trợ thực hiện giải quyết khoản tiền chuyển nhầm của bà T, ngân hàng gặp phải một số khó khăn, vướng mắc.
Ngân hàng cho biết không thể hoàn trả tiền chuyển nhầm khi chưa liên hệ được người thụ hưởng và chưa có sự đồng ý của họ. Theo Luật Các tổ chức tín dụng 2024, ngân hàng phải bảo mật thông tin khách hàng, chỉ cung cấp khi có yêu cầu từ cơ quan có thẩm quyền hoặc được chính khách hàng đồng ý. Ngoài ra, bà T muốn lấy thông tin người thụ hưởng phải có văn bản từ cơ quan chức năng hoặc sự chấp thuận của người nhận tiền chuyển nhầm
Đầu tháng 8-2025, bà T gửi đơn đến cơ quan công an nhờ hỗ trợ đòi lại tiền chuyển nhầm thì được hướng dẫn là bà nên đi kiện.
Bà T thắc mắc, vậy bà phải kiện ai vì bà không biết được thông tin của người mà bà đã chuyển nhầm tiền.
Chủ tài khoản khó nhận lại số tiền đã chuyển nhầm vào tài khoản người khác. Ảnh minh họa: NGUYỄN CHÍNH
Muốn khởi kiện thì phải có đủ thông tin người bị kiện
Trao đổi với PV báo Pháp Luật TP.HCM, luật sư Lê Thành Công (Đoàn Luật sư TP.HCM) cho biết trong trường hợp nếu khởi kiện thì bà T phải kiện chủ tài khoản mà bà đã chuyển nhầm tiền; ngân hàng là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Việc khởi kiện trước tiên phải đáp ứng về hình thức, nội dung đơn khởi kiện tại Điều 189 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015. Trong đó, đơn khởi kiện ngoài các nội dung khác thì phải có tên, nơi cư trú, làm việc của người bị kiện là cá nhân hoặc trụ sở của người bị kiện là cơ quan, tổ chức; số điện thoại, fax và địa chỉ thư điện tử (nếu có). Trường hợp không rõ nơi cư trú, làm việc hoặc trụ sở của người bị kiện thì ghi rõ địa chỉ nơi cư trú, làm việc hoặc nơi có trụ sở cuối cùng của người bị kiện.
Trường hợp này, bà T không biết được thông tin về tên, nơi cư trú, làm việc của người bị kiện thì bà không thể khởi kiện được.
Bà có thể xác minh thông tin người chuyển nhầm thông qua ngân hàng. Nếu ngân hàng từ chối cung cấp thông tin cá nhân của khách hàng như đã nêu ở trên thì bà phải làm đơn nhờ Cơ quan công an nơi bà cư trú hỗ trợ xác minh thông tin của người chủ tài khoản mà bà đã chuyển nhầm tiền. Khi có đủ thông tin về tên, nơi cư trú, làm việc của người này thì bà mới có thể khởi kiện được.
Về hồ sơ khởi kiện, bà cần chuẩn bị đầy đủ các chứng từ liên quan đến giao dịch chuyển tiền để chứng minh việc chuyển tiền là do nhầm lẫn; xác nhận của ngân hàng về việc đã làm việc với người nhận nhưng không thành công;…
Tòa sẽ căn cứ vào yêu cầu khởi kiện và hồ sơ bà T cung cấp để giải quyết theo quy định.
Nhận tiền chuyển nhầm: Nếu ém luôn là bị tội hình sự
Việc cố tình chiếm hữu số tiền do người khác chuyển nhầm được xem là hành vi chiếm hữu tài sản không có căn cứ pháp luật.
Điều 166 BLDS quy định quyền đòi lại tài sản như sau: Chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác đối với tài sản có quyền đòi lại tài sản từ người chiếm hữu, người sử dụng tài sản, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật.
Bên cạnh đó, Điều 579 BLDS quy định người chiếm hữu, người sử dụng tài sản của người khác mà không có căn cứ pháp luật thì phải hoàn trả cho chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác đối với tài sản đó.
Trường hợp người nhận tiền chuyển nhầm cố tình không trả lại tiền, mặc dù người chuyển nhầm và ngân hàng đã thực hiện thủ tục thông báo đòi lại, thì người chuyển nhầm có quyền gửi đơn đến cơ quan công an để yêu cầu xử lý. Cơ quan có thẩm quyền sẽ xem xét và xử lý hành vi này theo quy định pháp luật. Tùy theo mức độ vi phạm, người nhận tiền có thể bị xử phạt hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự.
Thực tế, công an đã khởi tố nhiều vụ án và bị can có hành vi chiếm giữ trái phép tài sản do đã nhận tiền chuyển khoản nhầm mà không chịu trả lại.
Luật sư LÊ THÀNH CÔNG, Đoàn Luật sư TP.HCM
NGUYỄN CHÍNH