Từ câu hỏi của người đẹp
Ngần ấy cầu thì ngày nào em cũng “lộn qua lộn lại qua cầu gió bay”? - Tôi đùa, cô lại cười: Thì sanh ra trên sông nước mới phải làm nhiều cầu, chứ ở đất bằng xây lắm cầu làm chi?
Thành phố (cũ) cô ở là nơi có hệ thống cầu dày đặc vào loại nhất thế giới, sánh ngang với những thành phố nghìn cầu như Thượng Hải (Trung Quốc), Amsterdam (Hà Lan), có gần 40km2 diện tích mặt nước kênh, sông, hồ…
Cô bảo “Mấy con số xưa rồi. Sau sáp nhập nhiều số mới, như nếu bỏ các nhánh sông, kênh, rạch nội đô, chỉ tính riêng chiều dài 3 con sông lớn: Sài Gòn, Đồng Nai, Thị Vải thì thành phố mới đã có hơn 300km sông.
Cầu sắt Bình Lợi cũ 118 tuổi trước khi bị tháo dỡ (phải), bên cạnh cầu sắt Bình Lợi mới nối đôi bờ sông Sài Gòn. Ảnh tư liệu: VOV
Dài hơn sông Hoàng Phố 113km của Thượng Hải, hơn chiều dài cả 3 con sông Amstel, sông Noordzeekananal, sông IJ của Amsterdam cộng lại. Là thành phố của em vẫn đứng đầu! Tôi thông báo.
Lần này cô cười to “Anh nói như… cán bộ, cái gì cũng khoái đứng đầu. Làm dân như em lại nghĩ cái thứ nhất đó là của thiên nhiên, đâu phải do con người. Nếu muốn so sánh TP.HCM với Thượng Hải hay Amsterdam, thì phải xem từ sự ưu đãi tự nhiên bậc nhất đó, con người mình đã làm nên, tạo ra những thành tích gì so với người xứ họ? Người dân thành phố này được hưởng gì từ thiên nhiên ban cho chan chứa nước?”
Trước khi tìm câu trả lời thiếu phụ Sài gòn xinh đẹp, cũng nên cho nhau biết vì can cớ gì lại muốn so TP.HCM với Thượng Hải, Amsterdam? Tất nhiên chúng có những khác biệt không nhỏ, nhưng về đại thể do chung mấy đặc điểm:
Cả 3 cùng là đô thị cảng và thành phố sông nước, đều từng dựa vào thủy lộ là trục chính của sự phát triển trước khi đường bộ và hàng không bùng nổ;
Cả 3 thành phố đều có diện tích mặt nước đáng kể để kết hợp với giao thông, kinh tế, du lịch, sinh thái và khai thác bất động sản ven nước, tạo bản sắc đô thị;
Cả 3 thành phố đều đối mặt với các vấn đề liên quan đến nước, như ngập lụt, ô nhiễm, và nước biển dâng.
Mỗi đặc điểm chứa nhiều nội dung lớn, phức tạp, cần chuyên môn sâu, bài báo phổ thông này chỉ đi tìm câu trả lời cho cô bạn tôi, TP.HCM sau sáp nhập (từ đây gọi là mới) so với Thượng Hải, Amsterdam có thật “chan chứa nước” và “cần đuổi nước đi hay giữ nước lại”?
Đoạn sông Sài Gòn chảy qua trung tâm TP.HCM. Ảnh: Nguyễn Minh Tú
Lấy gì để đo đếm nước?
Lứa chúng tôi được dạy “nước ta có rừng vàng biển bạc”, nghe yên tâm quá. Nhưng rừng – biển ấy có thể quy ra bao nhiêu tấn vàng/bạc chẳng hạn, có thể đo đếm cụ thể được, đặng cho con cháu hoan hỷ thừa kế, thì lại chẳng biết? Sở dĩ nói thế vì phần đông người ta có nhiều cảm xúc trước sự giầu có, đẹp đẽ của giang sơn đất nước, thậm trí hay làm thơ ca ngợi, tốt chứ! Nhưng trong nhiều lĩnh vực cần đo đếm cụ thể, chúng ta lại thiếu hay chưa sử dụng các công cụ để lượng giá trị tài nguyên thiên nhiên, nên mới có việc ở Đà Lạt chính quyền định giá 1m2 rừng 7.000 đồng, không mua nổi gói xôi sáng (xem thêm bài viết: Vì đâu 1 mét vuông rừng chưa bằng giá gói xôi?).
Thêm nữa, phần đông người ta dân đồng bằng gốc nông dân sống bằng “ca dao và lúa”, xưa cái gì quý cũng “quy ra thóc”, nay có tài sản to thì “quy ra đất”. Và vốn xuất thân nông dân nên thường quý “mặt đất” hơn “mặt nước”, tiến vào đô thị, mở mang thành phố, gặp sông anh ấy lấp sông, gặp kênh lấp kênh tạo thêm đất xây nhà bán, chứ hiếm khi làm ngược lại.
Kênh Nhiêu Lộc - Thị Nghè nhìn từ trên cao. Ảnh: Dân Trí
TP.HCM của cô bạn tôi sinh ra từ sông nước, sông nước là bà mẹ của thành phố, là tài nguyên, người ta bảo vậy. Nhưng để biết có “chan chứa nước”, tài nguyên ấy có lớn thật hay không, lại cần “đo, đếm” bằng con số, thay đánh giá theo cảm tính, để nhà cầm quyền quản lý nước chặt chẽ như quản lý đất, tránh “vô ý đuổi nước” khỏi đô thị.
Có hai chỉ số quan trọng được dùng trong công việc này :
1. Tỷ lệ diện tích mặt nước (water Surface Ratio): Là phần trăm diện tích sông, hồ, kênh rạch so với tổng diện tích đô thị. Chỉ số này giúp quy hoạch không gian, cảnh quan, và chống ngập. Ví dụ, Amsterdam (Hà Lan) giữ 12 - 15% diện tích cho kênh đào giúp hỗ trợ vận tải và du lịch.
2. Mật độ kênh rạch (canal density): Là tổng chiều dài kênh rạch trên một km², hỗ trợ giao thông thủy và thoát nước. Thành phố Venice (Ý) dùng mật độ ~ 0,5 km/km² để duy trì vận tải thuyền .
Hai chỉ số này giúp ngành quy hoạch thiết kế đô thị bền vững, tận dụng thủy hệ gia tăng giá chức năng giao thông, tăng giá trị thẩm mỹ, bất động sản, đánh giá tác động của đô thị hóa (như lấp kênh rạch) đến môi trường và hạ tầng, giúp lập kế hoạch phát triển các khu dân cư ven sông, kênh (như Thủ Thiêm ở TP.HCM hoặc Phố Đông ở Thượng Hải). Đồng thời các chỉ số được dùng để quản lý nước để chống ngập, điều tiết lũ, và ứng phó biến đổi khí hậu (nước biển dâng, bão), quy hoạch hồ điều hòa, cống ngầm, đê biển, và bảo vệ hệ sinh thái.
Dự án ngăn triều 10.000 tỉ đồng kỳ vọng giảm ngập TP.HCM tuy nhiên bị đình trệ nhiều năm qua. Ảnh: Báo Lao Động
Ngành quản lý tài nguyên nước dùng chỉ số tỷ lệ bề mặt nước để đánh giá khả năng lưu trữ và điều tiết nước trong lưu vực (quản lý lưu lượng nước, phòng chống lũ lụt, đảm bảo cung cấp nước sinh hoạt). Đặc biệt với các mô hình như "thành phố bọt biển" (sponge city) ở Thượng Hải, chỉ số này giúp xác định không gian nước cần giữ lại để giảm ngập lụt. Còn chỉ số mật độ kênh rạch được dùng phân tích khả năng thoát nước và vận chuyển nước trong hệ thống thủy lợi hoặc đô thị.
Tất nhiên không chỉ quy hoạch đô thị và quản lý tài nguyên nước sử dụng các chỉ số đó, mà các ngành khác, như: khoa học môi trường dùng đánh giá đa dạng sinh học, chất lượng nước, khả năng tự làm sạch của hệ sinh thái; ngành kỹ thuật hạ tầng và giao thông dùng thiết kế hạ tầng thủy lợi, cống ngầm, đê biển, đảm bảo cân bằng giữa mặt nước và đất liền. Ví dụ, Amsterdam sử dụng chỉ số này để quy hoạch trạm bơm và kênh đào v.v...
Triều cường trên đường Lê Văn Lương huyện Nhà Bè (cũ). Ảnh tư liệu: Tùng Tin
Không nhiều nước đâu em ơi!
Bây giờ ta có thể so sánh trữ lượng nước của TP.HCM mới với Thượng Hải và Amsterdam bằng hai chỉ số “tỷ lệ diện tích mặt nước” và “mật độ kênh rạch”. Để làm việc này nhanh và chính xác nhờ “cậu AI” cho các kết quả, tôi chỉ rút gọn như sau:
* TP.HCM mới có diện tích: 6.772,6km². Tỷ lệ diện tích mặt nước: 2,10 - 2,77% diện tích lãnh thổ (trong đó tự nhiên: 2,02 - 2,55%, nhân tạo: 0,09-0,22%). Mật độ kênh rạch: 0,177 - 0,221km/km2.
* TP. Thượng Hải có diện tích: 6.340,5km2. Tỷ lệ diện tích mặt nước : 9,94% diện tích lãnh thổ (trong đó tự nhiên: 1,97 - 2,29%, nhân tạo: 7,65 - 7,97%). Mật độ kênh rạch: 0,158km/km2.
* TP. Amsterdam có diện tích: 219,3km2. Tỷ lệ diện tích mặt nước: 11,86 -15,04% diện tích lãnh thổ (trong đó tự nhiên: 4,56 - 6,84%, nhân tạo 6,84 - 8,21%). Mật độ kênh rạch: 0,456km/km2.
Amsterdam là mẫu mực về quản lý nước, dù 70% đất thấp dưới mực nước biển nhưng không bị ngập lụt. Ảnh: Kim Dung
Nhìn lướt cũng thấy “thành phố của người đẹp phương Nam” hôm nay không “chan chứa nước”, bởi cả hai chỉ số tỷ lệ diện tích mặt nước và mật độ kênh rạch của nó đều thấp nhất so với Thượng Hải và Amsterdam. Có thể cô ấy sẽ hỏi lại “ờ bị thấp, thì sao chớ?”. -Dạ, thấp thì xảy ra nhiều chuyện lắm, xin nêu đại khái:
Vận tải thủy: TP.HCM mới với hệ thống kênh rạch 1.200 - 1.500km cùng sông Sài Gòn, Đồng Nai, Thị Vải chỉ đảm nhận khoảng 10% khối lượng hàng hóa (1,2 triệu tấn/năm). Tỷ lệ diện tích mặt nước thấp (2,10 - 2,77%) và mật độ kênh rạch thưa (0,177 - 0,221km/km2) đã hạn chế nghiêm trọng vai trò vận tải thủy.
Trong khi Thượng Hải có tỷ lệ diện tích mặt nước cao 9,94% kết hợp mạng lưới kênh dày (0,158km/km2) cho phép vận tải thủy gánh vác phần lớn lưu lượng hàng hóa; chỉ riêng hệ thống đường thủy nội địa và cảng đã đảm nhận khối lượng tương đương trên 50% tổng lượng hàng hóa thành phố.
Amsterdam có tỷ lệ diện tích mặt nước cao nhất 11,86 -15,04% và mật độ kênh rạch dày đặc nhất 0,456km/km2 (100km) nhờ quy hoạch đồng bộ, vận tải thủy đảm nhận khoảng 20% hàng hóa nội địa và 70% khách du lịch đường thủy, góp phần giảm áp lực cho đường bộ.
Cảng Cái Mép - Thị Vải thuộc hệ thống hạ lưu sông Đồng Nai, Sài Gòn và là một trong hai lối ra biển chính của TP.HCM mới. Ảnh: Trần Trung Chính
Chống ngập lụt: Thượng Hải nhờ tỷ lệ diện tích mặt nước cao 9,94% (nhân tạo 7,65 - 7,97%) gồm các kênh Tô Châu, hồ nhân tạo,và 670 công viên xanh hấp thụ nước, giảm ngập 70%. Mật độ kênh rạch 0,158km/km² (1.000km) sạch, kết nối hệ cống ngầm lớn, nên chỉ 5% diện tích bị ngập nhẹ
Amsterdam loại bỏ ngập lụt dù 70% đất thấp dưới mực nước biển, có tỷ lệ diện tích mặt nước cao nhất 11,86 -15,04%, gồm các kênh đào và hồ chứa nước mưa, kết hợp đê chắn. Mật độ kênh rạch cũng cao nhất 0,456km/km², các kênh rất sạch,thoát nước hiệu quả, thành phố không ngập ngay cả mưa lớn.
Còn TP.HCM ngập lụt liên miên thì biết rồi. Nhưng vẫn đáng nói nhất là khi so sánh, sẽ thấy trong chỉ số tỷ lệ diện tích mặt nước, thì phần nhân tạo của Thượng Hải (67,65 - 7,97%/9,94%) và Amsterdam (6,84 - 8,21%/11/86 - 15.4%) đều lớn hơn tự nhiên.Tức là các thế hệ người Trung Quốc, Hà Lan đã, thế hệ này tiếp nối thế khác bền bỉ đào thêm hàng trăm, nghìn km kênh rạch, không ngừng gia tăng không gian chứa nước và luôn làm sạch nó.
Ở chiều ngược lại, TP.HCM ít xây kênh mới, chủ yếu cải tạo kênh cũ (Tham Lương - Bến Cát), và hơn 50% (khoảng 500km) kênh rạch đã bị lấp từ 1990 -2020 do đô thị hóa, như kênh Đôi - Tẻ, Tàu Hủ… làm giảm sâu cả hai chỉ số đánh giá nước.Thêm nữa, kênh rạch ô nhiễm nặng (coliform vượt chuẩn 2 – 2.400 lần) giảm khả năng thoát nước, làm tối thiểu 70% diện tích TP.HCM mới dễ ngập trong các mùa mưa.
Các dự án bất động sản lớn mọc lên bên bờ sông, sạch TP.HCM. Ảnh: Znews
Bất động sản ven nước: Đương nhiên nhà có view biển, sông, kênh, hồ có giá hơn không có, càng thêm giá trị nếu nếu cảnh quan đẹp, sạch sẽ, hoặc ngược lại do bị ô nhiễm hoặc quản lý kém. Ví dụ giá đất ven sông Sài Gòn sạch từ 200 - 300 triệu đồng/m², tăng 20 - 30% (so với năm 2024) nhờ cảnh quan sông nước, giá căn hộ ven sông ở Thủ Thiêm trên 170 triệu đồng/m², tăng 47% (so với năm 2024) nhờ cảnh quan và vị trí gần sông.
Thượng Hải cũng vậy, giá ven đất kênh sạch Tô Châu, ven sông Hoàng Phố thường cao gấp 2 - 3 lần trung bình đất thành phố, giá căn hộ vị trí tốt có thể đạt hơn 400 triệu đồng/m². Amsterdam giá đất, giá căn hộ ven kênh (như Herengracht) thường cao hơn 15 - 20% so với khu không gần nước nhờ cảnh quan kênh sạch và du lịch. Nói đơn giản ở đâu có cảnh quan nước sạch, ở đó nhà đất có có giá, nền kinh tế bất động sản được hưởng lợi từ không gian nước, phong cảnh, bản sắc thành phố hình thành từ nước.
Như vậy cả 3 khu vực: giao thông vận tải, chống ngập lụt, giá trị bất động sản, đều chịu tác động của hai chỉ số đo lường nước. Nó cho thấy về tổng thể thành phố này cần nhiều nước hơn, thậm trí có thể bớt đường bộ để lo thủy hệ, cho hàng hóa, con người, nhà cửa vận hành, sinh sống trong không gian nước bao la giầu có và đẹp đẽ. Tôi ước thế.
Tôi cũng hy vọng đã trả lời thiếu phụ phương Nam, rằng thành phố mà ngày nào cô cũng “lộn qua lộn lại qua cầu gió bay” không chan chứa mà thiếu nước. Nhưng rất có thể lúc này hai mẹ con cô đang bì bõm dắt xe trở về nhà trên những con đường ngập nước dưới cơn mưa chiều xối xả. Vâng, trong cảnh khổ sở ấy, sao có thể yêu được nước chứ?
Trần Trung Chính
_______________
(*) Các số liệu trong bài được sử dụng và tham khảo từ nhiều nguồn mở.