Chuyện về người đưa cây mắc ca về Thiên Phủ

Chuyện về người đưa cây mắc ca về Thiên Phủ
2 giờ trướcBài gốc
Dẫn chúng tôi đi qua những cung đường đất và nhỏ hẹp, ông Thính chỉ tay lên quả đồi: “Ngày trước là luồng. Giờ là mắc ca”. Ông nói vậy, bởi ở xã Thiên Phủ, luồng từng là “thủ phủ” cây luồng, là ký ức kinh tế của cả một thế hệ. Chặt luồng để trồng cây lạ, từng bị gọi là “liều”, chẳng mấy ai dám.Sinh ra và lớn lên giữa luồng, ông Thính gắn đời mình với thăng trầm của thứ cây từng nuôi sống bản làng. Những năm 80-90, luồng Thanh Hóa ngược xuôi khắp các tỉnh phía Bắc. Nhờ luồng, con ông được ăn học, có nhà cửa kiên cố, có chiếc xe máy đi lại.
Vườn cây mắc ca của ông Hà Văn Thính nằm giữa bát ngát rừng luồng.
Nhưng thời hoàng kim của cây luồng qua đi. Ông Thính nói, giờ một cây luồng to, đẹp, dài hơn 10m, vài năm tuổi cũng chỉ bán được khoảng 10.000-30.000 đồng. Ở vùng xa, trừ công thuê xe tải, thuê người kéo ra đường lớn, có khi chỉ còn 5.000 đồng/cây. Luồng lại thiếu chuỗi chế biến sâu, chủ yếu làm đũa dùng một lần, băm dăm bán cho nhà máy giấy và vàng mã. Những “chuyện lớn” ấy không giải quyết một sớm một chiều, còn người trồng luồng thì vẫn phải sống từng mùa. Và câu hỏi rất thật cứ luẩn quẩn trong ông: trồng cây gì để hiệu quả hơn?Năm 2013, ông bắt đầu nghĩ đến việc chuyển đổi. Ông đi thăm các vườn đồi ở nhiều địa phương trong và ngoài tỉnh, tìm hiểu những cây trồng giá trị cao. Có lúc mua giống về trồng thử, có lúc cân nhắc rồi gác lại. Nhưng ý nghĩ “phải đổi” cứ day dứt, nhất là khi ông tự nhìn ra: luồng giúp thoát nghèo, nhưng để khá lên thì khó.Cơ duyên đến khá tình cờ. Trước năm 2015, ông Thính thừa nhận mình không biết mắc ca là cây gì. Một lần xem chương trình truyền hình về nông nghiệp, ông thấy giới thiệu mô hình trồng mắc ca ở huyện Thạch Thành cũ. Ban đầu, ông còn nhầm với mắc ca theo cách gọi dân gian ở miền núi. Nghe kỹ mới vỡ ra, mắc ca là nữ hoàng quả khô đã được trồng ở một số địa phương miền núi thấp, còn khu vực vùng cao thì gần như chưa có.Thế là ông tơ tưởng đưa loài cây ấy về đất Mường Ca Da, thay diện tích luồng kém hiệu quả. Ông bắt xe xuống Thạch Thành, lần tìm đến nhà một trong những người xuất hiện trên chương trình để tận mắt nhìn cây, học kinh nghiệm. Ông hỏi từ cách đào hố, bón phân, tỉa cành đến chuyện phòng bệnh. Người nông dân miền núi học bằng chuyến đi, bằng quan sát và bằng đôi tay, ít lý thuyết nhưng rất thực tế.Trở về, ông làm ngay. Đồi dốc, máy móc khó vào, cả gia đình bốn người thay nhau cày cuốc, chặt luồng, đào bỏ gốc, cải tạo đất. Khi đất đã tơi xốp, ông vay ngân hàng 20 triệu đồng, ra tận Ba Vì (Hà Nội) mua cây giống mắc ca. Thời điểm ấy, mỗi cây giống khoảng 110.000 đồng. Ông được miễn phí vận chuyển vì là người đầu tiên ở Quan Hóa trước đây mua giống, nhưng “miễn phí” không làm giảm rủi ro: đem giống cây lạ về đất lạ, chỉ cần sai một nhịp là mất trắng.Năm 2015, ông mua 200 cây giống, trồng trên 1ha đất đồi. Lời ong tiếng ve lập tức bủa vây, người bảo trồng rồi phải đào đi vì không ra quả; người xót tiền thay ông; thậm chí trong nhà cũng có người lo. Ông không đôi co. Ông chọn cách trả lời bằng công việc chăm cây, làm cỏ, bón phân, tỉa cành, kiên nhẫn chờ.Bốn năm là quãng đủ dài để người ta nản, nhưng lại là quãng thời gian bắt buộc của mắc ca. Ông Thính kể, lần đầu thấy những chùm hoa trên cây, ông đứng nhìn rồi cười một mình rất lâu. Đó là cái cười nhẹ mà sâu, như vừa nhìn thấy con đường mình đi không còn mờ mịt. Đến khi cây đậu quả và cho thu, ông mới thở phào. Năm 2018, ông thu bói vài ba tạ hạt. Những năm sau, năng suất tăng dần nhờ ông tăng đầu tư phân chuồng, NPK, giữ vườn sạch cỏ để cây phát triển.
Cây mắc ca đơm hoa, kết trái trên mảnh đất Thiên Phủ.
Trong thời gian cây chưa khép tán, ông còn trồng xen cà pháo để tận dụng đất: hơn một tháng đã có thu hoạch, “ngày nào cũng có trái bán”. Cách làm ấy rất “miền núi”: không để đất rỗi, không để công rơi, vừa chờ cây dài ngày, vừa có nguồn quay vòng.Nhận thấy thổ nhưỡng phù hợp, năm 2019 ông mở rộng thêm 1 ha. Đến nay, diện tích mắc ca của ông hơn 2 ha với hơn 400 cây. Để có quỹ đất liền vùng, ông từng thuyết phục các hộ liền kề hoán đổi hoặc cho thuê lại. Ở miền núi, “thu xếp đất” nhiều khi khó chẳng kém thu xếp vốn, nhưng ông kiên trì đi từng nhà, nói bằng sự thật và bằng chính vườn cây đã lớn của mình.
Ông Hà Văn Thính kể với phóng viên về quá trình trồng cây mắc ca.
Ông so sánh mộc mạc mà thuyết phục, một khoảnh đồi có khoảng 35 gốc luồng, mỗi năm bán được chừng 2,5 triệu đồng. Cùng diện tích ấy, trồng được khoảng 200 cây mắc ca. Mỗi cây thu khoảng 25 kg, bán tươi cũng đã hơn 1 triệu đồng/cây. Đồng tiền thu về cao hơn cây luồng. Năm 2024, gia đình ông thu 1,8 tấn quả, giá bán 40.000 đồng/kg quả tươi. Trừ các khoản chi phân bón, thuê dọn cỏ, thu hái..., trang trại cho thu nhập hàng trăm triệu đồng. Năm 2025, gia đình thu khoảng 4 tấn quả tươi; nếu bán tươi cũng hơn 160 triệu đồng, trừ chi phí lãi hơn 120 triệu đồng.Điều đáng nói là ông không “đặt cược” tất cả vào mắc ca. Gia đình vẫn có nguồn từ luồng, xoan, chăn nuôi và cửa hàng tạp hóa. Nhờ thế, kinh tế gia đình ông ổn định, con cái học hành, nhà cửa khang trang và sự khá lên ấy đến từ sự bền bỉ bám đất.Khi sản lượng tăng, ông bắt đầu cơ giới hóa. Trước đây tách vỏ quả xanh hoàn toàn thủ công; giờ ông mua máy tách vỏ, giảm công và tăng hiệu suất. Ông cũng nghĩ đến việc nâng giá trị, bằng việc sấy hạt, tách hạt làm sản phẩm khô thay vì chỉ bán quả tươi. Ông cho hay, làm nông bây giờ không chỉ là trồng, mà phải nghĩ đến chế biến và thị trường.
Hạt mắc ca khô và bóc vỏ của ông Thính đang trong quá trình hoàn thiện sản phẩm thương mại.
Tuy vậy, ông cũng chỉ ra những nỗi lo: chuyển đổi ở Thiên Phủ còn nhỏ lẻ, người dân chủ yếu tự bỏ vốn; giống có dòng đã được công nhận và dòng chưa được công nhận; thiếu thông tin kỹ thuật nên có vườn cùng trồng nhưng cây cho quả, cây không hoặc cho quả ít. Địa phương cũng chưa có cơ sở chế biến; sản phẩm thường phải chở xuống các xã khác để tiêu thụ, vừa tốn công, vừa tốn chi phí. Cây đã đứng vững trên đồi nhưng con đường để quả đi xa vẫn còn gập ghềnh.Dẫu vậy, tiếng lành về cây mắc ca vẫn lan khắp Thiên Phủ. Ban đầu xã chỉ có khoảng 10 hộ trồng với khoảng 5 ha, thì đến năm 2025 tăng lên hơn 12 ha/42 hộ. Nhiều hộ ở xã lân cận cũng tìm đến tham quan, học hỏi, nhờ mua cây giống. Ông Thính không giữ bí quyết. Ông dẫn bà con lên đồi, cầm tay chỉ việc từ đào hố, bón phân, tỉa cành đến phòng bệnh. Lớp học ấy không bảng đen phấn trắng, chỉ có đồi dốc và những hàng cây đang lớn. Nhưng chính từ đó, một mô hình hình thành: từ một người dám đổi cây, thành nhiều người dám nghĩ khác.
Thời gian qua, nhiều hộ nông dân trong vùng đến học tập kinh nghiệm tại vườn mắc ca của ông Thính.
Thiên Phủ vẫn nhiều dốc, nhiều khe suối, nhiều vất vả. Thế nhưng, giữa những triền đồi từng hàng mắc ca đang lên xanh như một lời nhắc giản dị, đất khó không có nghĩa là không thể khá lên. Chỉ là con đường đến “cái khá” ấy phải đi bằng mồ hôi, bằng tri thức và bằng sự kiên nhẫn, thứ kiên nhẫn bền như đá núi.
Bá Phượng
Nguồn Thanh Hóa : https://vhds.baothanhhoa.vn/chuyen-ve-nguoi-dua-cay-mac-ca-ve-thien-phu-40373.htm