Bổ sung điều khoản riêng quy định về đất đắp
Thảo luận tại Tổ, các đại biểu đánh giá, dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Địa chất và khoáng sản có nhiều điểm mới, thể hiện tư duy quản lý hiện đại, minh bạch và khả thi. Bên cạnh đó, đã tập trung vào ba trụ cột lớn, là: hoàn thiện cơ chế khai thác khoáng sản nhóm IV phục vụ đầu tư công; phân cấp - phân quyền gắn với trách nhiệm giải trình; quản lý tài nguyên gắn với bảo vệ môi trường và phát triển bền vững.
Toàn cảnh họp tổ. Ảnh: Xuân Quý
Góp ý vào vấn đề khai thác khoáng sản nhóm IV phục vụ san lấp (Khoản 18, 19 Điều 1 sửa Điều 72, 73) ĐBQH Cầm Hà Chung (Phú Thọ) cho biết, thực tế, tại nhiều địa phương đang thiếu nghiêm trọng nguồn đất đắp nền cho các dự án giao thông, hạ tầng trọng điểm. Dự thảo đã thể chế hóa cơ chế đặc thù, cho phép đơn giản hóa thủ tục cấp phép khai thác đất san lấp, tạo thuận lợi cho đầu tư công. Tuy nhiên, còn hai vấn đề cần chỉnh lý được đại biểu chỉ rõ.
ĐBQH Cẩm Hà Chung (Phú Thọ) phát biểu. Ảnh: Xuân Quý
Thứ nhất, dự thảo chưa quy định cụ thể về bồi thường, hoàn trả mặt bằng khi thu hồi đất để khai thác làm vật liệu san lấp. Việc thiếu hướng dẫn thống nhất gây lúng túng trong quyết toán, điều chỉnh tổng mức đầu tư, nhất là những dự án làm cũ rồi.
Thứ hai, cơ chế đặc thù hiện nay mới mở về thủ tục, chưa đi đôi với yêu cầu môi trường. Nếu không xác định tiêu chí kỹ thuật và hậu kiểm chặt chẽ, có thể phát sinh sạt lở, xói mòn, ảnh hưởng dân sinh. Do đó, đại biểu đề nghị bổ sung điều khoản riêng quy định đầy đủ về đất đắp, bao gồm thẩm quyền, quy trình, tiêu chí môi trường, hậu kiểm và phương án phục hồi môi trường sau khai thác.
ĐBQH Đặng Bích Ngọc (Phú Thọ) phát biểu. Ảnh: Xuân Quý
Cùng quan điểm, ĐBQH Đặng Bích Ngọc (Phú Thọ) dẫn chứng, thực tế, tại một số địa phương sau khi sáp nhập đơn vị hành chính, dù các dự án có nhu cầu 4,2 đến 4,5 triệu m3 vật liệu đắp nền, sau khi nghiên cứu tính toán xác định vị trí có thể khai thác được 1,5 triệu m3 nhưng thực tế chưa thể khai thác sử dụng, dẫn đến khó khăn trong giải ngân và triển khai thực hiện dự án. Đại biểu đề nghị, Chính phủ rà soát đầy đủ các khó khăn, vướng mắc trên toàn quốc về vật liệu san lấp, đắp nền móng công trình; nghiên cứu quy định cụ thể về đất đắp ngay trong dự thảo Luật sửa đổi để khắc phục toàn diện, triệt để vướng mắc hiện nay.
ĐBQH Nguyễn Văn Mạnh (Phú Thọ) phát biểu. Ảnh: Xuân Quý
Ngoài ra, ĐBQH Nguyễn Văn Mạnh (Phú Thọ) đề nghị, cần bổ sung thêm các quy định về cơ chế, kiểm soát hậu kiểm khi cắt giảm các thủ tục khai thác, thăm dò các khoáng sản nhóm III, nhóm IV trong quá trình thực hiện, tránh việc khai thác tràn lan, gây thất thoát lãng phí tài nguyên, khoáng sản để lại hậu quả cho môi trường.
Bổ sung trách nhiệm cấp xã để siết quản lý tài nguyên khoáng sản
ĐBQH Nguyễn Văn Mạnh (Phú Thọ) nêu thực tế, yêu cầu vận chuyển đất thải đến bãi đổ quy hoạch làm tăng chi phí vận chuyển, ảnh hưởng lớn đến tổng mức đầu tư các dự án.
Nghị quyết 66.4/2025 của Chính phủ về các cơ chế, chính sách đặc thù nhằm tháo gỡ khó khăn trong triển khai Luật Địa chất và Khoáng sản năm 2024 đã giúp tháo gỡ phần nào khi cho phép tận dụng đất thải đấu thầu, phân bổ cho dự án đầu tư công, dự án đầu tư thực hiện theo phương thức đối tác công tư (PPP) nhằm bổ sung nguồn đất đắp còn thiếu. Tuy nhiên, nhiều dự án khu đô thị, khu công nghiệp cũng rất cần nguồn đất này lại không thuộc phạm vi áp dụng. Đại biểu đề nghị, Chính phủ nghiên cứu mở rộng phạm vi áp dụng, bảo đảm sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên đất và giảm chi phí cho các dự án đầu tư trên cả nước.
ĐBQH Lê Đào An Xuân (Đắk Lắk) phát biểu. Ảnh: Xuân Quý
Góp ý về điều kiện cấp giấy phép khai thác khoáng sản, ĐBQH Lê Đào An Xuân (Đắk Lắk) nhận định, khoản 1a có nêu việc cấp giấy phép khai thác khoáng sản nhóm III làm vật liệu xây dựng không căn cứ vào phương án quản lý địa chất khoáng sản. Đây là điểm “mở” về thủ tục nhưng nếu không căn cứ phương án quản lý thì việc xác định các mỏ có trữ lượng, chất lượng phù hợp với công trình sẽ rất khó, dẫn đến rủi ro nếu chúng ta chọn các mỏ không bảo đảm trữ lượng, chất lượng phục vụ cho thi thi công sẽ gây lãng phí, hệ lụy sau khai thác.
Ngoài ra, đại biểu cũng đề nghị, tại khoản 1a, Điều 53 cần làm rõ thêm điều kiện năng lực của nhà đầu tư và đơn vị thi công, bảo đảm quá trình khai thác các mỏ vật liệu xây dựng để phục vụ thi công, bảo đảm các yêu cầu kỹ thuật và bảo vệ môi trường. Ngoài ra, tại các tỉnh có Ban Quản lý dự án được giao là chủ đầu tư thì liệu có được xem là cơ quan có thẩm quyền theo quy định tại khoản này không?
ĐBQH Nguyễn Thị Thu Nguyệt (Đắk Lắk) điều hành phiên thảo luận. Ảnh: Xuân Quý
Liên quan đến miễn, giảm thủ tục môi trường, ĐBQH Cầm Hà Chung đồng tình với quy định cho phép một số dự án khai thác khoáng sản làm vật liệu san lấp không phải lập báo cáo đánh giá tác động môi trường nhưng phải có phương án khai thác. Song, đại biểu đề nghị quy định rõ ngưỡng kỹ thuật, quy mô, thời hạn, khối lượng, vị trí, khoảng cách đến khu dân cư và nguồn nước để tránh chồng chéo với Luật Bảo vệ môi trường. Đồng thời, phải ghi rõ cơ chế hậu kiểm: tần suất, nội dung, cơ quan chịu trách nhiệm, chế tài nếu vi phạm. Chỉ khi có hậu kiểm nghiêm túc thì việc “giảm tiền kiểm” mới thực sự mang lại hiệu quả, vừa tạo thuận lợi, vừa giữ vững kỷ cương quản lý tài nguyên.
Các đại biểu tham dự phiên thảo luận tổ. Ảnh: Xuân Quý
Theo ĐBQH Lê Đào An Xuân (Đắk Lắk), trong hoạt động khai thác tận dụng khoáng sản dư thừa, hiện nay tại nhiều địa phương có lượng lớn đất, đá thải được tập kết tại các bãi thải vật liệu xây dựng. Thực tế cho thấy, phần khoáng sản này vẫn còn giá trị tái sử dụng, đặc biệt là đất san lấp và đất đá phục vụ thi công hạ tầng. Vì vậy, đề nghị dự thảo bổ sung quy định về phương án tận dụng đất, đá thải, nhằm hạn chế lãng phí tài nguyên và nâng cao hiệu quả sử dụng khoáng sản.
Về trách nhiệm của các cơ quan liên quan, ĐBQH Đặng Bích Ngọc (Phú Thọ) đề nghị, dự thảo cần nghiên cứu, xem xét bổ sung trách nhiệm của cấp xã trong việc giám sát, phát hiện báo cáo vi phạm khai thác khoáng sản trái phép vì xã là đơn vị trực tiếp nắm rõ tình hình khai thác mỏ khoáng sản và phản ánh của người dân. Do đó phải có quy định chặt chẽ để giám sát việc khai thác, hiệu quả các nguồn tài nguyên khoáng sản nhưng vẫn bảo đảm yếu tố môi trường xung quanh. Ngoài ra cần quy định rõ chế tài, cơ chế phối hợp liên ngành để xử lý dứt điểm các tình trạng khai thác khoáng sản trái phép.
Đồng tình với ý kiến trên, ĐBQH Cầm Hà Chung cũng đề nghị bổ sung vai trò cấp xã và cơ chế phối hợp liên ngành trong giám sát, xử lý vi phạm. Bởi, thực tế, khai thác trái phép thường diễn ra nhỏ lẻ, phân tán ở cấp xã, thôn bản. Nếu không phát huy vai trò của chính quyền cơ sở, rất khó ngăn chặn kịp thời. Đại biểu đề nghị bổ sung quy định trách nhiệm của UBND cấp xã trong việc giám sát, phát hiện, báo cáo và phối hợp với cơ quan có thẩm quyền trong kiểm tra, xử lý vi phạm. Đồng thời, cần có chế tài nghiêm khắc với hành vi không hoàn thổ, không phục hồi môi trường sau khai thác.
Trần Tâm