Tiếng gọi ‘cô ơi’ thân thương ấy đã níu bước chân tôi ở lại
Sinh ra ở xã Lùng Tám, tỉnh Tuyên Quang, cô Mến, người dân tộc Bố Y, mang theo ước mơ làm giáo viên từ thuở nhỏ. Sau khi tốt nghiệp Trường Cao đẳng Sư phạm Hà Giang, cô nhận công tác ngay khi ra trường và từ đó gắn bó với vùng cao.
Khi cô về trường, Bát Đại Sơn còn nghèo khó, điểm trường cheo leo giữa sườn núi, mùa mưa đường sình lầy, mùa đông gió buốt. Trẻ nhỏ vốn tiếng Việt còn ít, nhiều em chỉ quen nói tiếng mẹ đẻ.
“Ánh mắt ngây thơ và tiếng gọi ‘cô ơi’ thân thương ấy đã níu bước chân tôi ở lại vùng biên cương này”, cô tâm sự. Ngày đầu, điện lưới không ổn định, cô phải soạn giáo án dưới ánh đèn pin hoặc mượn ánh sáng từ bếp lửa. Để có đồ dùng dạy học, cô rong ruổi quanh bản nhặt vỏ ngô, rơm khô, hòn sỏi rồi biến chúng thành đồ chơi, học cụ cho trẻ.
Ánh mắt ngây thơ và tiếng gọi "cô ơi" thân thương ấy đã níu bước chân cô ở lại vùng biên cương này (Ảnh: NVCC)
Khó khăn lớn nhất là rào cản ngôn ngữ. Trẻ còn rụt rè, vốn tiếng Việt hạn chế, tiếp nhận kiến thức gặp nhiều trở ngại. Hiểu điều đó, cô bắt đầu bằng những điều nhỏ nhất: một hình ảnh minh họa, một cử chỉ thân thiện, một câu nói chậm rãi.
Mỗi câu chuyện đều đan xen tiếng Việt và tiếng mẹ đẻ nhờ phụ huynh hỗ trợ. Mỗi góc lớp, mỗi bức tranh, đồ vật đều gắn tên tiếng Việt, tạo “môi trường học tập giàu ngôn ngữ”.
Cô quan niệm dạy chữ quan trọng nhưng dạy trẻ biết làm người còn quan trọng hơn. Cô kiên trì hướng dẫn kỹ năng tự phục vụ, lễ phép, biết cảm ơn - xin lỗi, biết lắng nghe và hợp tác. “Tôi mong các con lớn lên không chỉ biết đọc, biết viết, mà còn biết yêu thương, biết tự hào về bản làng và quê hương mình”, cô chia sẻ.
Những tháng ngày bám bản giúp cô hiểu nhọc nhằn của đồng bào. Cô tìm tòi phương pháp mới, áp dụng công nghệ thông tin và trí tuệ nhân tạo vào bài giảng, thiết kế hoạt động theo quan điểm “lấy trẻ làm trung tâm”, chú trọng trải nghiệm thực tế để trẻ hứng thú và ghi nhớ tốt hơn.
Công sức không phụ người. Trẻ mạnh dạn, tự tin hơn; phụ huynh chủ động phối hợp để tạo môi trường ngôn ngữ trong gia đình. Những điều giản dị ấy là nguồn động lực để cô tiếp tục vượt qua ngày mưa gió, đêm dài soạn giáo án, những lúc nhớ nhà da diết.
Hơn mười lăm năm tận tụy đã đưa cô Mến trở thành giáo viên dạy giỏi cấp huyện, tỉnh, nhiều năm liền đạt danh hiệu chiến sĩ thi đua. Năm 2025, cô vinh dự được Thủ tướng Chính phủ tặng Bằng khen vì thành tích trong giáo dục và đào tạo, góp phần vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc. Với cô, đó là sự ghi nhận dành cho tất cả giáo viên đang lặng thầm gieo chữ nơi rẻo cao biên giới.
Nỗ lực, bền bỉ gieo chữ và vun đắp ước mơ cho trẻ
“Tình yêu nghề và lòng kiên trì đã giúp tôi vượt qua những ngày mưa gió, những đêm dài soạn giáo án. Tôi tự hào vì góp phần giúp các con tự tin bước ra thế giới rộng lớn hơn”, cô giáo Nguyễn Thị Mến.
Năm tháng ở Bát Đại Sơn giúp cô thấm thía ý nghĩa nghề giáo vùng cao: cần nhiều kiên trì, lòng nhân ái và niềm tin. Ở nơi sương mù phủ quanh năm, mỗi ánh mắt thơ ngây, nụ cười bẽn lẽn là động viên để cô vượt qua mọi vất vả.
Cô kể có những buổi sáng tuyết rơi trắng sân trường, cái lạnh buốt khiến trẻ co ro trong manh áo mỏng. Có những ngày mưa lũ, cô và đồng nghiệp men theo vách đá, bám dây rừng để vào lớp. Chỉ cần nghe tiếng trẻ ríu rít trong lớp học tạm bợ, cô thấy mọi nhọc nhằn đều tan biến. “Chỉ cần các con đến lớp là tôi có đủ động lực để tiếp tục”, cô cười.
Cô Nguyễn Thị Mến kể về hành trình gieo chữ tại Lễ tuyên dương ‘Chia sẻ cùng thầy cô’ 2025, vinh danh 80 nhà giáo tiêu biểu
Cô luôn hy vọng trẻ được học tập trong điều kiện tốt hơn, ăn bán trú trong bếp ăn đạt chuẩn, có phòng học kiên cố. Đồng thời, cô mong giáo viên vùng cao có nơi lưu trú an toàn, ổn định để yên tâm công tác lâu dài. Nhà công vụ chưa có, nhiều năm cô và đồng nghiệp vẫn ở ngay trong phòng học – nơi ban ngày trẻ học chữ. “Giáo dục không chỉ là truyền đạt kiến thức, mà còn là mang hơi ấm của lòng nhân ái đến các con”, cô nói.
Nhà cách trường hơn 20 km, những ngày nắng cô về lo cho gia đình, còn phần lớn thời gian ở lại trường duy trì việc dạy học. Gia đình nhỏ với người chồng thấu hiểu và hai con ngoan ngoãn là điểm tựa lớn, giúp cô vững lòng tiếp tục gắn bó với nghề và bản làng.
Trong mắt cô, mỗi đứa trẻ vùng biên là một mầm cây nhỏ. Chỉ cần chăm sóc đúng cách, chúng sẽ lớn mạnh và bay xa. Cô tin rằng một ngày, học trò hôm nay sẽ trở thành bác sĩ, kỹ sư, giáo viên, chiến sĩ biên phòng… trở về xây dựng quê hương, biến Bát Đại Sơn từ “vùng khó” thành vùng sáng tri thức. Dù gian nan, cô chưa bao giờ có ý định rời nơi này.
“Nếu được chọn lại, tôi vẫn sẽ chọn nghề dạy học. Nếu được chọn nơi để gắn bó, tôi vẫn sẽ chọn vùng biên cương Tổ quốc”, cô khẳng định. Giữa đầu nguồn Tổ quốc, hành trình gieo chữ của cô Nguyễn Thị Mến vẫn tiếp tục, bền bỉ và đẹp đẽ như tình yêu nghề sâu nặng mà cô dành cho các con - những mầm xanh của núi rừng Bát Đại Sơn.
Thu Hằng/VOV.VN