Cơ hội để hạt lúa Quảng Trị bước vào thị trường carbon toàn cầu

Cơ hội để hạt lúa Quảng Trị bước vào thị trường carbon toàn cầu
8 giờ trướcBài gốc
Từ cánh đồng xanh đến tín chỉ carbon
- P.V: Thưa bà Nguyễn Hồng Phương! Bà đánh giá như thế nào về hiệu quả bước đầu của mô hình lúa giảm phát thải khí nhà kính tại Quảng Trị?
- Bà Nguyễn Hồng Phương: Vụ đông xuân 2024-2025, tỉnh Quảng Trị đã thí điểm trên 60ha và tiến hành đánh giá sau khi thu hoạch. Trên cơ sở đó, Sở NN-MT tỉnh báo cáo UBND tỉnh và đề xuất kế hoạch nhân rộng hợp tác với mục tiêu đến năm 2030 có 50% diện tích lúa toàn tỉnh tham gia chương trình, mỗi năm phấn đấu 5.000 - 10.000ha. Riêng trong vụ hè thu năm 2025, toàn tỉnh đã triển khai mô hình lúa giảm phát thải khí nhà kính trên diện tích hơn 2.000ha tại các xã: Triệu Phong, Triệu Bình, Vĩnh Thủy, Trường Ninh, Ninh Châu và Quảng Ninh.
Kết quả bước đầu cho thấy mô hình đã mang lại nhiều lợi ích rõ rệt: Tiết kiệm nước, giảm chi phí, hạn chế sâu bệnh, năng suất và chất lượng lúa vẫn được duy trì. Khi áp dụng biện pháp tưới khô xen ướt, lượng khí mê-tan (CH₄) giảm 58,21%-66,87%, tương đương 3,01-3,34 tấn CO₂ không phát ra môi trường/ha. Quan trọng hơn, bà con đã thay đổi tư duy, hướng tới lợi ích lâu dài từ thị trường carbon - minh chứng rằng nền nông nghiệp xanh, bền vững hoàn toàn khả thi ở Quảng Trị.
Lãnh đạo Sở NN-MT tỉnh Quảng Trị và Viện Khoa học Kỹ thuật nông nghiệp Bắc Trung bộ, Công ty Green Carbon kiểm tra mô hình lúa giảm phát thải khí nhà kính tại HTX Duy Viên, xã Vĩnh Thủy - Ảnh: N.B
- P.V: Khái niệm tín chỉ carbon trong sản xuất nông nghiệp còn khá mới mẻ. Bà có thể cho biết khái niệm này gắn với sản xuất lúa như thế nào?
- Bà Nguyễn Hồng Phương: Theo quy định tại khoản 35, Điều 3, Luật Bảo vệ môi trường 2020: “Tín chỉ carbon là chứng nhận có thể giao dịch thương mại và thể hiện quyền phát thải một tấn khí carbon dioxide (CO₂) hoặc một tấn khí carbon dioxide (CO₂) tương đương”. Như vậy tín chỉ carbon như một loại giấy phép có giá trị thương mại, gắn liền với quyền phát thải một lượng khí nhà kính cụ thể. Người nông dân có thể hiểu đơn giản, tín chỉ carbon giống như một “phiếu thưởng” mình nhận được nếu làm ra ít khí thải gây ô nhiễm môi trường hơn trong hoạt động sản xuất nông nghiệp. Mỗi tín chỉ tương đương với việc người nông dân đã áp dụng các phương pháp canh tác tiên tiến nhằm làm giảm hoặc hấp thu được một tấn CO₂. Những phiếu thưởng này có tiềm năng để tham gia vào thị trường giao dịch tín chỉ carbon khi thị trường này chính thức đi vào hoạt động theo quy định của pháp luật Việt Nam.
- P.V: Theo bà, đâu là cơ hội để Quảng Trị tham gia thị trường tín chỉ carbon quốc tế từ chính những cánh đồng lúa của mình?
- Bà Nguyễn Hồng Phương: Với hơn 102.000ha lúa gieo trồng hằng năm, Quảng Trị có tiềm năng rất lớn để tham gia thị trường carbon quốc tế. Nếu tổ chức sản xuất tốt, ứng dụng công nghệ số để giám sát minh bạch, cây lúa Quảng Trị hoàn toàn có thể đạt chứng nhận quốc tế và tham gia thị trường carbon. Đây là “cơ hội kép” vừa giúp nông dân tăng thu nhập, vừa khẳng định vị thế của ngành nông nghiệp địa phương trong xu thế phát triển xanh và hội nhập toàn cầu.
Thu khí mê-tan (CH4) 1 lần/tuần tại ruộng lúa giảm phát thải khí nhà kính xã Vĩnh Thủy - Ảnh: N.B
Động lực mới cho nông dân và nông nghiệp Quảng Trị
- P.V: Trong mô hình lúa giảm phát thải và hướng tới tín chỉ carbon, công nghệ số đóng vai trò như thế nào, thưa bà?
- Bà Nguyễn Hồng Phương: Công nghệ số là chìa khóa để mô hình lúa carbon thấp thành công. Toàn bộ dữ liệu vùng trồng đã được số hóa và quản lý trực tuyến, giúp giám sát minh bạch. Trong thời gian tới, có thể ứng dụng thêm các công nghệ như: Cảm biến đo mực nước ruộng gắn với các van điều tiết nước tự động, thiết bị giám sát phân bón, ảnh vệ tinh, máy bay không người lái (drone) để theo dõi đồng ruộng. Dữ liệu được tổng hợp, phân tích chính xác, đảm bảo tính minh bạch - điều kiện bắt buộc để tín chỉ carbon được quốc tế công nhận. Nhờ công nghệ số, hạt gạo Quảng Trị đang có cơ hội bước thẳng vào thị trường carbon toàn cầu.
- P.V: Nghị quyết 57 của Bộ Chính trị xác định khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số là đột phá quan trọng hàng đầu. Vậy để mô hình lúa carbon thấp phát triển bền vững, ngành Nông nghiệp và Môi trường Quảng Trị cần làm gì để tận dụng được động lực từ nghị quyết này?
- Bà Nguyễn Hồng Phương: Nghị quyết 57 là động lực và nguồn lực quan trọng để ngành nông nghiệp đầu tư vào ứng dụng khoa học, công nghệ. Chúng tôi xác định tập trung vào ba hướng: Thứ nhất, đẩy mạnh sử dụng phân bón hữu cơ, chế phẩm sinh học, giảm hóa chất trong sản xuất; ứng dụng các kỹ thuật tiên tiến trong canh tác như áp dụng AWD (tưới khô xen ướt) trong canh tác lúa, canh tác nông lâm kết hợp, các mô hình vườn rừng, khuyến cáo nông dân không đốt rơm rạ, thực bì sau thu hoạch.
Thứ hai, chuyển giao, tập huấn kỹ thuật để nông dân làm chủ quy trình canh tác thân thiện với môi trường, chuyển giao kỹ năng số cho nông dân.
Thứ ba, nâng cao nhận thức và năng lực tiếp cận thị trường carbon cho hợp tác xã, nông dân, để khi Việt Nam hình thành sàn giao dịch carbon thì Quảng Trị có thể chủ động tham gia.
- P.V: Để mô hình này thực sự bền vững, nông dân được hưởng lợi, cần có những cơ chế gì, thưa bà?
- Bà Nguyễn Hồng Phương: Tín chỉ carbon được hình thành từ chính hoạt động sản xuất của nông dân và hợp tác xã, vì vậy họ là người hưởng lợi trực tiếp. Chúng tôi đang phối hợp với các tổ chức quốc tế và doanh nghiệp để xây dựng cơ chế minh bạch từ phân bổ nguồn thu bán tín chỉ, hỗ trợ đầu vào sản xuất xanh đến kết nối thị trường. Khi lợi ích gắn liền với trách nhiệm, nông dân sẽ gắn bó lâu dài, còn thương hiệu “lúa carbon thấp Quảng Trị” sẽ có chỗ đứng bền vững không chỉ thị trường trong nước mà còn vươn ra quốc tế.
- P.V: Xin trân trọng cảm ơn bà!
Nguyên Bảo (thực hiện)
Nguồn Quảng Trị : https://baoquangtri.vn/kinh-te/202509/co-hoi-de-hat-lua-quang-tri-buoc-vao-thi-truong-carbon-toan-cau-b0100a4/