Ngày xưa, khi nhà tôi còn ở Đồng Văn, quán cà phê này là trụ sở của UBND xã Đồng Văn. Người ta kể, ngôi nhà này trước đây thực dân Pháp xây để làm trụ sở chỉ huy của Pháp khi họ đến chiếm đóng Đồng Văn. Phía trước mặt ngôi nhà là khu chợ. Ngày xưa thực dân Pháp xây chợ để làm nơi giao thương buôn bán trao đổi hàng hóa và thu mua thuốc phiện.
Ngồi trên căn gác nhỏ, tôi có thể thấy rõ khu chợ cổ ngày xưa. Khu chợ với ba dãy nhà hình chữ U nằm gọn trong lòng phố cổ, cổng chợ quay theo hướng Đông Nam, với lối kiến trúc đơn giản nhưng khá chắc chắn được bố trí gọn gàng, thông thoáng, không trình tường. Những chân cột làm bằng đá vuông vắn, mái lợp ngói âm dương. Xưa kia, nơi đây là trung tâm giao thương buôn bán của cả một vùng Cao nguyên đá Đồng Văn rộng lớn.
Những sáng chủ nhật xưa ấy, tôi thường được mẹ cho đi chợ cùng. Ở đây hình như có một quy ước nào đó mà tôi không biết rõ, chỉ thấy ở chợ mọi thứ đều được phân thành khu vực. Nơi bán các loại rau và gia vị, mùa nào rau đấy; nơi bán quần áo đủ màu sắc rực rỡ; nơi bán các vật dụng như chảo, dao, lưỡi cày; nơi bán thịt lợn, thịt bò; nơi bán thắng cố, phở; nơi bán rượu; nơi sửa giày, sửa quần áo...
Ở chợ, những gian hàng bán thịt, thắng cố, đồ dùng và gia súc thường do đàn ông đứng bán; trong khi các quầy rau, bánh, quần áo, rượu, ngô hay dịch vụ sửa quần áo… lại chủ yếu do phụ nữ đảm trách.
Cho đến tận bây giờ, tôi vẫn thường tự hỏi: sao ở trên cao nguyên đá này, phụ nữ thường là người nấu rượu rồi mang rượu ra chợ phiên bán, còn đàn ông sẽ là người mua rượu và uống rượu? Hình ảnh những người đàn ông ngồi uống rượu bên chiếc bàn gỗ nhỏ nơi góc chợ, những người đàn bà ngồi bên cạnh chồng với đôi mắt nhẫn nại, cam chịu và đợi chờ... cho đến tận bây giờ vẫn vương vương trong ký ức của tôi.
Đàn bà Mông ở đây nói: Chồng mình là người tốt thì ra chợ mới được bạn mời uống rượu. Chồng không tốt thì ra chợ sẽ không có ai mời rượu. Đó là cái lý của người Mông.
Có phải vì cái lý đó mà phụ nữ Mông ở đây họ nhẫn nại như thế, tự hào như thế và cũng cam chịu như thế chăng?!
Ngày xưa, đến chợ, tôi thích ngồi xem những người đàn ông vá giày. Họ có một cái máy khâu đạp bằng chân rất nhỏ, từng mũi từng mũi chỉ đều tăm tắp. Những đôi giày ba ta, giày nhung, giày vải bị rách đế, rách mũi mọi người mang ra chợ để những người thợ vá lại. Qua đôi bàn tay tuy thô ráp vì phải làm nương, xếp đá nhưng lại rất khéo léo, những chỗ rách trên giày đều trở nên lành lặn.
Trên những khuôn mặt rám nắng là ánh mắt chăm chú nhìn vào chỗ rách như đang gửi gắm cả tâm trí, sự tập trung vào đó. Hình như những người thợ vá giày không quan tâm đến không gian nhộn nhịp của chợ. Và tôi cũng thấy, họ không bao giờ ngồi uống rượu bên chảo thắng cố. Bây giờ xã hội phát triển, đời sống người dân đã đổi thay, người ta không còn có nhu cầu vá giày. Vì vậy, giờ đến chợ phiên tôi cũng không còn gặp được những người thợ vá giày nữa.
Ngày xưa, mỗi lần theo mẹ ra chợ, nếu có đi qua hàng bán xôi, tôi thường được bà Ngân cho một bát xôi con con. Bà Ngân là đồng nghiệp làm cùng cơ quan bố mẹ tôi, nhưng bà vẫn đi bán xôi vào những buổi chợ phiên. Xôi của bà ngon nhất chợ. Những hạt nếp hương đều nhau, thơm, dẻo, căng mọng đủ màu sắc nóng hổi. Bây giờ tuy tuổi đã nhiều, lưng đã còng, nhưng bà vẫn đi bán xôi cho khách du lịch và cho những người nhớ xôi của bà.
Khi chính quyền huyện Đồng Văn quyết định di dời chợ sang chỗ mới để dành lại không gian chợ cổ làm dịch vụ du lịch, có người nói với tôi: Không biết chợ mới có còn những không gian văn hóa nồng nàn như chợ cổ không? Không biết chợ mới có những cột đá lớn với mái lợp bằng ngói âm dương - kiến trúc đặc trưng của cao nguyên đá Đồng Văn không? Tôi thì nghĩ, có lẽ sứ mệnh của chợ cổ đã xong, nó cần khoác lên mình một chiếc áo mới để phù hợp hơn với sự chuyển mình của xã hội, của nền kinh tế thị trường. Âu là lẽ đương nhiên của thời cuộc. Tuy nhiên cái lẽ “đương nhiên ấy” nó cũng đã khiến cho tôi không khỏi bâng khuâng, nhung nhớ và thổn thức.
Cho đến tận bây giờ, cái không gian thâm trầm, âm thanh nhộn nhịp, những chảo thắng cố nghi ngút khói, nắm cơm xôi ngũ sắc nóng hôi hổi thơm ngào ngạt, tiếng lạch cạch của chiếc máy vá giày, nụ cười lấp lánh của thiếu nữ Mông có chiếc răng khểnh mạ vàng và cả tiếng khèn vi vút trong những buổi chợ phiên của những ngày xưa ấy vẫn luôn vẹn nguyên trong ký ức tôi.
VỪ MAI HƯƠNG