Có nên 'ép buộc' doanh nghiệp FDI chuyển giao công nghệ?

Có nên 'ép buộc' doanh nghiệp FDI chuyển giao công nghệ?
7 giờ trướcBài gốc
Doanh nghiệp Việt ở cấp thấp của chuỗi giá trị toàn cầu
Chuỗi giá trị toàn cầu đã và đang có nhiều thay đổi thông qua việc chia nhỏ chuỗi giá trị thành nhiều công đoạn giá trị gia tăng khác nhau được thúc đẩy bởi dòng vốn FDI toàn cầu để triển khai ở những nơi phù hợp trên thế giới. Điều này mở ra nhiều cơ hội cho các nước đi sau tham gia, nâng cấp nền công nghiệp của mình và hướng tới tăng trưởng kinh tế bền vững.
Tuy nhiên theo TS. Cấn Văn Lực và nhóm nghiên cứu BIDV, nền sản xuất của Việt Nam hiện vẫn còn nằm trong cấp thấp trong chuỗi giá trị toàn cầu với hầu hết các ngành công nghiệp, giá trị gia tăng còn thấp, cạnh tranh cao, thâm dụng lao động giá rẻ. Trong khi đó, tài nguyên sử dụng chưa hợp lý, chưa hiệu quả, dẫn đến những rủi ro về ô nhiễm môi trường và phát triển thiếu bền vững.
TS. Cấn Văn Lực, kinh tế trưởng BIDV. Ảnh: Hoàng Anh
Cụ thể, tỷ lệ nội địa hóa chung của Việt Nam năm 2024 đạt 36,6%, ở mức trung bình - thấp trong khu vực, chỉ cao hơn một số nước như Myanmar, Bangladesh, Lào nhưng thấp hơn nhiều đối thủ cạnh tranh chính khác như Trung Quốc, Thái Lan, Ấn Độ, Indonesia, Malaysia.
Tỷ lệ nội địa hóa một số sản phẩm chủ lực vẫn còn thấp, như điện - điện tử 35%, cơ khí - chế tạo 25 - 30%, dệt may - da giày 45 - 55%. Sự tham gia của doanh nghiệp trong nước còn hạn chế, nhiều lĩnh vực công nghệ cao còn phụ thuộc vào nhập khẩu. Điều này có thể kéo theo nhiều rủi ro khác như “hàng trung chuyển”, không đáp ứng tiêu chí của các FTA, có thể bị đánh thuế cao.
Thứ hai, hàm lượng giá trị gia tăng nội địa trong xuất khẩu ở mức thấp so với các nước trong khu vực, trên thế giới. Cụ thể trong ngành điện - điện tử vốn chiếm 33,1% xuất khẩu của Việt Nam thì hàm lượng giá trị gia tăng nội địa chỉ ở mức 26,9%, thấp hơn đáng kể so với Thái Lan, Indonesia, Ấn Độ, Trung Quốc và Hàn Quốc. Ngành dệt may - da giầy cũng chỉ có hàm lượng giá trị gia tăng nội địa khoảng 33,9 - 35,8%, thấp hơn đáng kể tỷ lệ khoảng trên 60% của các đối thủ cạnh tranh.
Thứ ba, khu vực doanh nghiệp trong nước vẫn đóng góp khá hạn chế, chỉ dưới 30%, trong xuất khẩu, đặc biệt trong các sản phẩm chủ lực như sản phẩm điện tử và linh kiện, máy vi tính, và điện thoại; máy móc thiết bị phụ tùng.
Như vậy, khu vực FDI đang nắm trên 70% tổng giá trị xuất khẩu và có vai trò quyết định trong các lĩnh vực xuất khẩu quan trọng của nền kinh tế trong khi các doanh nghiệp trong nước chủ yếu tập trung trong một số lĩnh vực có giá trị xuất khẩu thấp, phụ thuộc vào tài nguyên.
Thứ tư, mức độ tham gia chuỗi giá trị toàn cầu của Việt Nam dù đã được nâng cao nhưng sự hội nhập vào chuỗi vẫn còn hạn chế, giảm từ 35% xuống còn 18% trong giai đoạn 2009 - 2023.
Lý do chủ yếu là liên kết với các chuỗi giá trị toàn cầu chỉ tập trung ở một số ít các doanh nghiệp lớn gây hạn chế cho phạm vi tác động lan tỏa về năng suất hầu hết doanh nghiệp. Trong khi đó, các doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ của Việt Nam chưa đủ quy mô và khả năng tiếp cận công nghệ cũng như lao động có kỹ năng để tuân thủ các yêu cầu chặt chẽ về chất lượng và độ kịp thời, theo đòi hỏi của các chuỗi giá trị toàn cầu.
Theo ông Lực, những hạn chế, tồn tại kể trên xuất phát từ một số nguyên nhân khách quan và chủ quan.
Về nguyên nhân khách quan, các doanh nghiệp FDI tập trung nhiều vào khâu gia công, lắp ráp để tối ưu chi phí. Doanh nghiệp FDI thường mang nhà cung cấp từ nước họ sang dẫn tới nhu cầu liên kết với doanh nghiệp trong nước và phát triển chuỗi cung ứng nội địa rất hạn chế. Do vậy, nhiều tập đoàn nước ngoài chưa thực sự hỗ trợ doanh nghiệp trong nước hay chia sẻ công nghệ cốt lõi cho đối tác Việt Nam.
Bên cạnh đó, áp lực từ cạnh tranh khu vực và quốc tế cùng với các tiêu chuẩn quốc tế ngày càng cao khiến các doanh nghiệp Việt Nam ngày càng khó tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu.
Đồng thời, dịch Covid-19, xung đột vũ trang Nga - Ukraine và tại Trung Đông, chiến tranh thương mại - công nghệ, khiến nhiều ngành, lĩnh vực, doanh nghiệp rơi vào hoàn cảnh khó khăn. Điều này buộc họ phải vật lộn với thu nhập, việc làm trước mắt và khó lồng ghép đầu tư phát triển dài hạn cho tăng nội lực.
Về nguyên nhân chủ quan, theo ông Lực, Việt Nam còn thiếu một chính sách, chiến lược phát triển công nghiệp bài bản và thống nhất dẫn dắt toàn bộ hệ thống. Một số chính sách thay đổi nhanh, gây khó cho doanh nghiệp khi đầu tư dài hạn. Còn chồng chéo, thiếu liên kết giữa các bộ ngành, địa phương; giữa công nghiệp và các lĩnh vực như đất đai, năng lượng, môi trường. Ưu đãi FDI tốt nhưng hỗ trợ doanh nghiệp trong nước còn chưa được nhiều và phân tán, chưa hiệu quả.
Khâu thực thi chưa hiệu quả do thiếu tính kiên định, thiếu rõ ràng và nhất quán trong khi quá trình theo dõi, giám sát, đôn đốc chưa quyết liệt và tháo gỡ vướng mắc trong thực hiện chưa kịp thời.
Bên cạnh đó, chính sách về tài chính, tín dụng chưa hiệu quả. Việc tiếp cận vốn, đặc biệt với doanh nghiệp nhỏ và vừa, còn khó khăn; chưa có cơ chế tài chính đặc thù cho công nghiệp; chính sách thuế, ưu đãi tài chính chưa đồng bộ.
Lực lượng lao động dù đông về số lượng nhưng chất lượng chưa cao, thiếu hụt đội ngũ lao động kỹ thuật cao, đặc biệt trong các ngành mới như bán dẫn, AI, tự động hóa. Việc đào tạo chưa gắn với nhu cầu thị trường, chương trình giáo dục nghề nghiệp còn nặng lý thuyết, thiếu thực hành.
Phần lớn doanh nghiệp nhỏ, quy mô và nguồn lực hạn chế, chưa đủ sức tham gia sâu vào chuỗi cung ứng. Chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp còn tập trung vào những vấn đề ngắn hạn mà chưa chú trọng đầu tư phát triển dài hạn, nên nhiều doanh nghiệp vẫn quan tâm nhiều vào đầu tư bất động sản, vào kiếm lợi trước mắt mà chưa thực sự dành nguồn lực cho chiến lược dài hạn, bền vững.
Nền sản xuất của Việt Nam hiện vẫn còn nằm trong cấp thấp trong chuỗi giá trị toàn cầu. Ảnh: Hoàng Anh
Để doanh nghiệp Việt tiến sâu hơn trong chuỗi cung ứng
Trong cuộc tọa đàm tham vấn ý kiến chuyên gia về tình hình kinh tế - xã hội do Thường trực Ủy ban Kinh tế và tài chính tổ chức, ông Lực cho rằng, để phát triển các ngành công nghiệp chiến lược nhằm từng bước nâng cao vai trò và giá trị gia tăng trong chuỗi giá trị toàn cầu ngay trong giai đoạn 2026 - 2030 và tiếp theo, Việt Nam cần thực hiện một số giải pháp trọng tâm.
Một là, đẩy nhanh hoàn thiện thể chế, chính sách của nhà nước về nâng cao năng lực sản xuất, phát triển công nghiệp phụ trợ, nâng cao tỷ lệ nội địa hóa tại Việt Nam. Bên cạnh triển khai hiệu quả các chính sách, nghị định đã ban hành, chiến lược mới cần tập trung vào xây dựng nền công nghiệp xanh, ứng dụng mạnh mẽ khoa học công nghệ, chuyển đổi số và có giá trị gia tăng cao. Cần đẩy mạnh chương trình “Make in Vietnam” và sớm ban hành Luật năng lượng tái tạo.
Hai là, thúc đẩy phát triển doanh nghiệp trong nước và liên doanh, liên kết với doanh nghiệp FDI. Việc thu hút FDI trong bối cảnh mới, tập trung vào các lĩnh vực và dự án có hàm lượng công nghệ cao, đổi mới sáng tạo và giá trị gia tăng lớn; có cam kết chuyển giao công nghệ và đào tạo lao động Việt Nam; đảm bảo các dự án FDI đóng góp cho phát triển bền vững thay vì chạy theo số lượng.
Việt Nam cần cân nhắc áp dụng các chính sách mới như ưu đãi thuế để phù hợp với quy tắc thuế tối thiểu toàn cầu, tiếp tục thúc đẩy đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật - xã hội…
Bên cạnh đó, cần hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa trong việc đào tạo về quản trị chuỗi cung ứng, tiêu chuẩn kỹ thuật quốc tế, chi phí và thủ tục chứng nhận chất lượng sản phẩm, dịch vụ để đủ điều kiện trở thành nhà cung ứng cấp 1, cấp 2 cho các tập đoàn FDI, thúc đẩy hình thức mua bán và sáp nhập… để họ có thể tham gia chuỗi cung ứng của các doanh nghiệp FDI.
Ba là, tập trung phát triển, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao. Cụ thể, nâng cấp hệ thống giáo dục nghề nghiệp, gắn kết với nhu cầu của doanh nghiệp; đào tạo chuyên gia trong ngành công nghệ cao; có chính sách giữ chân nhân lực chất lượng cao.
Bốn là, nghiên cứu các chính sách hỗ trợ về tài chính - đầu tư. Trong đó, thành lập, vận hành hiệu quả Quỹ phát triển công nghiệp chiến lược và công nghiệp hỗ trợ do Nhà nước chủ trì, phối hợp với khu vực tư nhân, tập trung hỗ trợ vốn dài hạn, lãi suất ưu đãi cho dự án sản xuất linh kiện, nguyên phụ liệu chiến lược… Ưu tiên các dự án đầu tư có công nghệ tiên tiến, cam kết chuyển giao kỹ thuật, công nghệ cho doanh nghiệp Việt Nam.
Bên cạnh đó, cần khuyến khích đầu tư trong nước thông qua phương án hỗ trợ thêm cho các doanh nghiệp nội địa đầu tư sản xuất linh kiện. Phát triển các kênh huy động vốn trung và dài hạn, nhất là trái phiếu doanh nghiệp, các quỹ đầu tư, quỹ đầu tư mạo hiểm.
Năm là, hỗ trợ phát triển khoa học - công nghệ, chuyển đổi số và tự động hóa. Đặc biệt, cần tăng cường đầu tư, hoàn thiện hạ tầng và nguồn nhân lực cho khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số quốc gia và doanh nghiệp.
Sáu là, thúc đẩy nâng cao năng lực sản xuất, phát triển công nghiệp gắn liền với chuyển đổi xanh và bền vững.
“Cần lưu ý, Việt Nam phải tuân thủ WTO (TRIMS/TRIPS) và các FTA nên không được gắn điều kiện phê duyệt đầu tư với phải chuyển giao công nghệ. Thay vì ép buộc, nên thiết kế ưu đãi có điều kiện, tự nguyện - minh bạch”, ông Lực nhấn mạnh.
Quỳnh Chi
Nguồn Nhà Quản Trị : https://theleader.vn/co-nen-ep-buoc-doanh-nghiep-fdi-chuyen-giao-cong-nghe-d41954.html