Sáng 10/12, với đại đa số đại biểu tham gia biểu quyết tán thành, Quốc hội chính thức thông qua Luật Quản lý thuế (sửa đổi).
Luật được xây dựng theo hướng tinh gọn, rút từ 17 chương, 152 điều xuống còn 9 chương, 53 điều, phù hợp với chủ trương luật hóa nguyên tắc chính sách lớn, quy định chi tiết giao Chính phủ.
Bộ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Văn Thắng trình bày báo cáo. Ảnh: Media Quốc hội.
Một trong những nội dung được quan tâm là quản lý thuế đối với hộ kinh doanh (Điều 13).
Báo cáo tiếp thu, giải trình, chỉnh lý và hoàn thiện dự thảo luật, Bộ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Văn Thắng cho biết, cơ quan chủ trì soạn thảo chỉnh sửa quy định về quản lý thuế với hộ kinh doanh theo hướng quy định rõ trách nhiệm hỗ trợ của cơ quan thuế với hộ kinh doanh đã sử dụng hóa đơn từ máy tính tiền kết nối dữ liệu với cơ quan thuế, xây dựng các công cụ hỗ trợ nhằm bảo đảm thuận lợi cho hộ kinh doanh nhưng vẫn phù hợp nguyên tắc chung tự khai, tự nộp thuế của người nộp thuế.
Cụ thể, luật quy định: đối với thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập cá nhân, trường hợp hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh tự xác định có mức doanh thu hằng năm từ hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ thuộc đối tượng không chịu thuế, đối tượng không phải nộp thuế theo quy định của pháp luật về thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập cá nhân, hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh thông báo doanh thu thực tế phát sinh trong năm với cơ quan thuế.
Trường hợp hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh xác định có mức doanh thu hằng năm từ hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ thuộc đối tượng chịu thuế, đối tượng phải nộp thuế theo quy định của pháp luật về thuế, hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh tự xác định số thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập cá nhân phải nộp theo quy định của pháp luật thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập cá nhân.
Trường hợp hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh sử dụng hóa đơn khởi tạo từ máy tính tiền có kết nối dữ liệu với cơ quan thuế, hệ thống thông tin quản lý thuế tự động tạo lập tờ khai thuế để hỗ trợ hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh trong việc khai thuế và tính thuế trên cơ sở dữ liệu hóa đơn điện tử, cơ sở dữ liệu quản lý thuế và các nguồn cơ sở dữ liệu khác mà cơ quan thuế có được từ cơ quan nhà nước khác, tổ chức, cá nhân cung cấp.
Đối với các loại thuế khác và khoản thu khác, hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh tự xác định số thuế, khoản thu khác phải nộp theo quy định của pháp luật về thuế, quy định khác của pháp luật có liên quan.
Hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh thực hiện khai thuế, tính thuế đối với từng loại thuế theo kỳ tính thuế. Cơ quan thuế căn cứ vào cơ sở dữ liệu quản lý thuế cung cấp thông tin để hỗ trợ hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh trong việc khai thuế và tính thuế.
Đối với hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh có hoạt động kinh doanh trên nền tảng thương mại điện tử, nền tảng số khác, trường hợp có hoạt động kinh doanh trên nền tảng thương mại điện tử, nền tảng số khác có chức năng đặt hàng trực tuyến và chức năng thanh toán, chủ quản nền tảng thương mại điện tử, nền tảng số khác (trong nước hoặc nước ngoài) có trách nhiệm khấu trừ, kê khai thay và nộp thay số thuế đã khấu trừ của hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh.
Trường hợp có hoạt động kinh doanh trên nền tảng thương mại điện tử, nền tảng số khác không có chức năng đặt hàng trực tuyến và chức năng thanh toán, hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh trực tiếp khai thuế, tính thuế và nộp thuế theo quy định.
Chính phủ quy định chi tiết điều này và các nội dung: việc quyết toán thuế và xử lý tiền thuế, khoản thu khác nộp thừa; phạm vi trách nhiệm, cách thức các chủ quản nền tảng thương mại điện tử, nền tảng số khác thực hiện khấu trừ, kê khai thay và nộp thay số thuế đã khấu trừ của hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh; trách nhiệm khai thay, nộp thuế thay của tổ chức trong các trường hợp: hợp tác kinh doanh với hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh, ký hợp đồng với hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh làm đại lý bán đúng giá đối với xổ số, bảo hiểm, bán hàng đa cấp.
Bộ trưởng Bộ Tài chính quy định hồ sơ, thủ tục kê khai doanh thu, kê khai thuế, nộp thuế và hoàn thuế, chế độ kế toán áp dụng đối với hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh.
Trong trường hợp có dấu hiệu trốn thuế, luật quy định cơ quan thuế có quyền truy cập vào dữ liệu phần mềm kế toán, hóa đơn điện tử, máy tính tiền của người nộp thuế có dấu hiệu trốn thuế.
Cơ quan, tổ chức, cá nhân được yêu cầu cung cấp thông tin có trách nhiệm cung cấp thông tin đúng nội dung, thời hạn, địa chỉ được yêu cầu và chịu trách nhiệm về tính chính xác, trung thực của thông tin đã cung cấp.
Trang Trần