Cơ sở lý luận và thực tiễn về đổi mới tổ chức, bộ máy của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong giai đoạn mới

Cơ sở lý luận và thực tiễn về đổi mới tổ chức, bộ máy của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong giai đoạn mới
5 giờ trướcBài gốc
Cơ sở lý luận của việc đổi mới tổ chức, bộ máy của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
1. Với tư cách của một học thuyết khoa học và cách mạng, chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định, mọi sự vật, hiện tượng trong đời sống xã hội đều trải qua quá trình vận động, thay thế cái cũ bằng cái mới để phát triển. Trên cơ sở đó, "đổi mới" với ý nghĩa là thay cái cũ, cái lạc hậu bằng cái mới, cái tiến bộ hơn thông qua con đường phủ định biện chứng (có sự kế thừa những yếu tố tích cực của cái cũ) là một yêu cầu khách quan để mọi sự vật, hiện tượng trong quá trình phát triển. Đổi mới về tổ chức, bộ máy của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam không nằm ngoài quy luật khách quan đó.
2. Trong nội dung tư tưởng đoàn kết của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đoàn kết toàn dân tộc phải gắn liền với xây dựng và phát triển Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam để đại đoàn kết tạo nên sức mạnh nội sinh của lực lượng cách mạng.
Đoàn kết toàn dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh không phải là đoàn kết chung chung, theo kiểu hô hào bằng khẩu hiệu mà phải thành lực lượng có tổ chức. Tổ chức đó là Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam, ngày nay là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Đoàn kết toàn dân trong Mặt trận Dân tộc thống nhất theo Hồ Chí Minh là một chiến lược của cách mạng; một phương thức tập hợp lực lượng cách mạng mang tính độc đáo, riêng có của cách mạng Việt Nam ở thời kỳ hiện đại mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra, được vận dụng vào đường lối cách mạng để khối đoàn kết toàn dân ngày càng rộng lớn, mạnh mẽ nhằm phục vụ sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc trước đây cũng như sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc ngày nay. Người khẳng định: “trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân cũng như trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, Mặt trận Dân tộc thống nhất vẫn là một trong những lực lượng to lớn của cách mạng Việt Nam”1.
Về tổ chức, bộ máy của Mặt trận Dân tộc thống nhất, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, với tư cách của một phong trào, một tổ chức là hình ảnh tiêu biểu của đoàn kết toàn dân tộc, thành phần trong Mặt trận Dân tộc thống nhất phải rất phong phú, đa dạng, có đủ đại diện những tinh hoa của các giai cấp, tầng lớp, thành phần xã hội; trong đó lấy giai cấp công nhân, nông dân với lực lượng trí thức làm nền tảng.
Tổ chức và hoạt động của Mặt trận Dân tộc thống nhất thực hiện theo nguyên tắc hiệp thương dân chủ, tôn trọng sự khác biệt của các thành viên trong quá trình hiệp thương đi đến thống nhất hành động. Đảng chính trị lãnh đạo cách mạng vừa là thành viên, vừa là người lãnh đạo của Mặt trận Dân tộc thống nhất. Do đó, phương thức lãnh đạo của Đảng chính trị đối với Mặt trận khác với phương thức lãnh đạo đối với Nhà nước. Trên cơ sở đó, Người khẳng định: “Đảng không thể đòi hỏi Mặt trận thừa nhận quyền lãnh đạo của mình mà phải tỏ ra là một bộ phận trung thành nhất, hoạt động nhất và chân thực nhất. Chỉ trong đấu tranh và công tác hàng ngày, khi quần chúng rộng rãi thừa nhận chính sách đúng đắn và năng lực lãnh đạo của Đảng thì Đảng mới giành được địa vị lãnh đạo”2.
Nhờ thực hiện chính sách đúng đắn đó đối với Mặt trận, Đảng đã đoàn kết toàn dân dưới ngọn cờ vẻ vang của Mặt trận3, giành được nhiều thắng lợi to lớn, vĩ đại trong đấu tranh giải phóng dân tộc. Sinh thời, Người khẳng định: "Đảng ta có chính sách Mặt trận dân tộc đúng đắn, cho nên đã phát huy được truyền thống đoàn kết và yêu nước rất vẻ vang của dân tộc ta”4.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về Mặt trận và tổ chức bộ máy của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cơ sở lý luận để Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra quan điểm, đường lối, chủ trương của cách mạng Việt Nam nói chung, đối với việc lãnh đạo đổi mới tổ chức, bộ máy của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam nói riêng phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ của mỗi giai đoạn cách mạng.
3. Quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng về đổi mới tổ chức, bộ máy của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Ngay từ khi khởi xướng và thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, Đảng đã chủ trương đổi mới tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam để đáp ứng yêu cầu của cộng cuộc đổi mới. Nghị quyết số 08B-NQ/HNTW ngày 27/3/1990, Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VI) về đổi mới công tác quần chúng của Đảng, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân, nêu rõ: "Đổi mới tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc, của các đoàn thể và tổ chức quần chúng"5.
Sự phát triển lý luận của Đảng về đổi mới tổ chức của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thể hiện cụ thể qua việc phát triển đường lối chung của các giai đoạn cách mạng Việt Nam từ khi thực hiện công cuộc đổi mới đất nước đến nay. Đó là từ việc xác định: "Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là liên minh chính trị6 của các đoàn thể nhân dân và cá nhân tiêu biểu của các giai cấp và tầng lớp xã hội, các dân tộc, các tôn giáo"7 được nêu trong Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991, phát triển thành "Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, tầng lớp xã hội, các dân tộc, tôn giáo và người Việt Nam định cư ở nước ngoài"8 được nêu trong Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung và phát triển năm 2011), được hiến định trong Hiến pháp năm 2013. Đây là một bước tiến rất dài về sự phát triển lý luận cách mạng của Đảng đối với việc đổi mới tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam nhằm đáp ứng yêu cầu mới của nhiệm vụ cách mạng.
Ảnh minh họa - Đoàn Chủ tịch chủ trì Hội thảo - Ảnh: Phạm Hùng
Trên cơ sở tổng kết thành tựu của 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991, đặc biệt, trong 10 năm thực hiện Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011), Đại hội lần thứ XIII của Đảng xác định 12 nhiệm vụ định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021 - 2030, trong đó có nhiệm vụ định hướng quan trọng là: "Đổi mới tổ chức, nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội"9.
Trên cơ sở đó, Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng chỉ rõ việc đổi mới tổ chức bộ máy của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam theo hướng: "Đổi mới tổ chức bộ máy, nội dung và phương thức hoạt động, nâng cao trách nhiệm của đội ngũ cán bộ Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội, hướng mạnh về cơ sở, địa bàn dân cư. Thực hiện tốt vai trò giám sát, phản biện xã hội, đại diện bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, hội viên, tích cực tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, tăng cường đối ngoại nhân dân. Xây dựng thế trận lòng dân, phát huy sức mạnh đoàn kết, đồng thuận của nhân dân trong và ngoài nước để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc"10.
Như vậy, chủ trương đổi mới tổ chức của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã được nêu lên ngay từ thời gian đầu của sự nghiệp đổi mới đất nước (nhiệm kỳ của Đại hội VI, 1986), nhưng phải đến Đại hội lần thứ XIII của Đảng yêu cầu đổi mới tổ chức, bộ máy của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam mới được nêu một cách cụ thể, gắn với việc đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trước tình hình, nhiệm vụ mới.
Với trách nhiệm của người đứng đầu Đảng chính trị cầm quyền, lãnh đạo cách mạng Việt Nam trong tình hình mới, đồng chí cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định việc đổi mới tổ chức bộ máy của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là một trong những nhiệm vụ, giải pháp cấp bách, bức thiết nhằm tiếp tục phát huy truyền thống yêu nước và sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc hiện nay. Đồng chí nêu rõ: "Tiếp tục đổi mới tổ chức bộ máy, nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội, các hội quần chúng thực sự đại diện và bảo vệ cho quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân"11.
Đồng thời, phải đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam: "Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, trong đó có Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, đồng thời Đảng cũng là thành viên trong Mặt trận, do đó, Đảng không thể đứng ngoài để lãnh đạo Mặt trận, mà phải thông qua hiệp thương dân chủ để nhân dân đồng tình, ủng hộ, đồng thuận cùng thực hiện thành công mọi nhiệm vụ"12.
Chủ nghĩa Mác - Lên nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm, chủ trương của Đảng về đổi mới đất nước nói chung và đổi mới tổ chức, bộ máy của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam nói riêng là cơ sở lý luận, dẫn đường cho nhiệm vụ đổi mới tổ chức, bộ máy của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong tình hình mới.
Cơ sở thực tiễn của việc đổi mới tổ chức, bộ máy của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
1. Từ khi lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam đã có nhiều sáng tạo, đổi mới trong việc xác định đường lối và phương pháp cách mạng để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của từng giai đoạn cách mạng nên đã giành được nhiều thắng lợi to lớn trong quá trình cách mạng giải phóng dân tộc cũng như trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày nay. Những dấu mốc về sự sáng tạo, đổi mới của Đảng có thể kể đến là:
+ Đổi mới phương pháp đấu tranh từ coi trọng cách mạng giải phóng giai cấp sang coi trọng cách mạng giải phóng dân tộc, đem đến thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, giành chính quyền về tay Nhân dân, lập nên nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa.
+ Đổi mới đường lối cách mạng bằng việc xác định tiến hành đồng thời hai cuộc cách mạng: Hoàn thành cách mạng dân chủ, nhân dân, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và cách mạng giải phóng dân tộc ở miền Nam, đi đến thắng lợi giải phóng hoàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc năm 1975.
+ Khởi xướng và thực hiện công cuộc đổi mới đất nước (từ 1986), mạnh dạn từ bỏ cái cũ (cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp), thiết lập cơ chế mới (kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa...) với từng bước đi cụ thể, phù hợp với đòi hỏi của thực tiễn khách quan, đưa đất nước thoát khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế, xã hội, đạt được nhiều thành tựu to lớn trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc như ngày nay.
2. Thực tiễn của các giai đoạn cách mạng Việt Nam đã đặt ra yêu cầu phải đổi mới tổ chức, bộ máy của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Về hình thức tổ chức. Hội Phản đế đồng minh, hình thức đầu tiên của Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam được hình thành ngày 18/11/1930 là một sáng tạo, đổi mới về phương thức tập hợp lực lượng của cách mạng Việt Nam. Từ khi có Hội phản đế đồng minh, phong trào đấu tranh cách mạng phát triển nhanh chóng, đỉnh cao là Xô viết Nghệ Tĩnh, được xem là cuộc tổng diễn tập đấu tranh giành chính quyền của nhân dân.
Tháng 3/1935, Đông Dương Phản đế liên minh được hình thành để đáp ứng phong trào đấu tranh cách mạng chuyển sang công tác tranh thủ rộng rãi quần chúng, được xác định là một nhiệm vụ “trung tâm, căn bản, cần kíp của Đảng hiện thời". Từ tháng 7/1936, thực hiện sự chuyển hướng chiến lược cách mạng của Quốc tế Cộng sản và căn cứ vào tình hình thực tiễn trong nước, Mặt trận Dân chủ được hình thành và được quần chúng nhân dân hưởng ứng mạnh mẽ, là ngọn cờ, linh hồn của cao trào đấu tranh dân chủ giai đoạn 1936 - 1939.
Như vậy, trong giai đoạn này Mặt trận Dân tộc thống nhất liên tục có sự đổi mới về hình thức, phương thức hoạt động để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ mới nhưng vẫn dừng lại ở mức phong trào, cuộc vận động, chưa hình thành nên tổ chức, bộ máy.
Về tổ chức, bộ máy. Năm 1941, tình hình thế giới và trong nước đã có nhiều chuyển biến quan trọng, cách mạng Việt Nam xác định nhiệm vụ trung tâm của toàn Đảng, toàn dân lúc này là chuẩn bị tổng khởi nghĩa giành chính quyền về tay Nhân dân với lực lượng là: “tất cả các tầng lớp, các giai cấp, các đảng phái, các dân tộc, các tôn giáo có tinh thần chống Pháp, Nhật, muốn độc lập cho đất nước, thành một mặt trận cách mạng chung”; Mặt trận Dân tộc thống nhất chống phát xít Pháp, Nhật với tên gọi Việt Nam Độc lập đồng minh, gọi tắt là Việt Minh ra đời với Tuyên ngôn khẳng định: “Việt Minh chủ trương liên hiệp các giới đồng bào yêu nước không phân biệt giàu nghèo, già trẻ, trai gái, không phân biệt tín ngưỡng, tôn giáo, chính trị đặng cùng nhau mưu cuộc giải phóng và sinh tồn. Việt Minh chủ trương học tập hết thảy mọi tinh thần độc lập chân chính của giống nòi kết thành một khối vô địch đặng đập tan xiềng xích của Nhật Pháp, quét sạch mưu mô xảo trá của bọn Việt gian phản quốc, chúng đã gạch tên trong quốc tịch của người Việt Nam”13.
Đồng thời, Mặt trận Việt Minh công bố Chương trình hành động gồm 44 điểm với các chính sách về chính trị, kinh tế, văn hóa; những chính sách cụ thể đối với các tầng lớp công nhân, nông dân, binh lính, công chức, học sinh, phụ nữ, thiếu nhi, người già và kẻ tàn tật, tư sản, địa chủ, nhà buôn và công bố Điều lệ của tổ chức.
Về tổ chức, Mặt trận Việt Minh được tổ chức theo hệ thống từ cơ sở đến Trung ương: Ở cấp xã có Ban Chấp hành Việt Minh do các đoàn thể Việt Minh ở làng hay xã cử ra. Ở cấp tổng, huyện (hay phủ, châu, quận), tỉnh, kỳ có Ban Chấp ủy Việt Minh của mỗi cấp tương ứng. Ở cấp toàn quốc có Tổng bộ Việt Minh. Đây là lần đầu tiên, Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam có đủ tư cách của một tổ chức, bộ máy thống nhất từ Trung ương đến cơ sở.
Trong giai đoạn 1945 - 1955, sau khi cách mạng giành được chính quyền về tay Nhân dân, Mặt trận Việt Minh làm nhiệm vụ xây dựng chính quyền nhân dân để bảo đảm công cụ quản lý điều hành, xã hội và tổ chức đấu tranh giải phóng dân tộc. Đồng thời, để tập hợp, đoàn kết tất cả các giai cấp, tầng lớp nhân dân tạo thành sức mạnh chung của khối đại đoàn kết, Mặt trận Dân tộc thống nhất hình thành thêm Hội Liên Việt (1946); hợp nhất Mặt trận Việt Minh và Hội Liên Việt thành Mặt trận Liên Việt (1951). Đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ mới của cách mạng Việt Nam sau chiến thắng lịch sử của Chiến dịch Điện Biên phủ, Hiệp định Giơnevơ được ký kết vào năm 1954, nhưng đất nước vẫn còn bị chia cắt bởi âm mưu, hành động của đế quốc, thực dân, cách mạng Việt Nam chuyển sang giai đoạn mới, Mặt trận Liên Việt tổ chức đại hội, đổi tên thành Mặt trận Tổ quốc Việt Nam vào năm 1955.
Đáp ứng yêu cầu của cách mạng giải phóng dân tộc ở miền Nam, cách mạng Việt Nam xác định tiếp tục đổi mới phương thức đấu tranh phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của Nhân dân hai miền Nam, Bắc để đạt được mục tiêu giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc, cùng với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ở miền Bắc, các tổ chức, bộ máy khác của Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam được ra đời ở miền Nam: Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam (1960) và Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và bình Việt Nam (1968).
Sự đổi mới về tổ chức, bộ máy của Mặt trận Dân tộc thống nhất hai miền Nam, Bắc giai đoạn này đã góp phần quan trọng, quyết định thắng lợi hoàn toàn của cách mạng giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc vào năm 1975. Sau ngày thống nhất Tổ quốc, 3 tổ chức Mặt trận của 2 miền Nam, Bắc thống nhất lại trong một tổ chức duy nhất, đó là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cho đến ngày nay.
Năm 1986, trước yêu cầu mới của cách mạng Việt Nam trong tình thế khủng hoảng của hệ thống xã hội chủ nghĩa quốc tế và khủng hoảng kinh tế, xã hội ở trong nước, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng khởi xướng công cuộc đổi mới đất nước. Trên cơ sở đó, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tiến hành việc đổi mới tổ chức bộ máy từ những bước đi căn bản, phù hợp với đòi hỏi của tình hình như:
Chức danh Chủ tịch Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (từ 1977 đến 2004) thành chức danh Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, cũng là Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (từ 2004 đến nay). Ban Thư ký (từ 1977 đến 1999) thành Ban Thường trực Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (từ 1999 đến nay). Trong Ban Thường trực Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam chỉ có chức danh Chủ tịch, Tổng Thư ký và Ủy viên Thường trực, không có chức danh Phó Chủ tịch (từ khóa I năm 1977 đến khóa V năm 199914) đổi mới bằng việc thay chức danh Ủy viên Thường trực bằng chức danh Phó Chủ tịch. Hình thành các Hội đồng tư vấn của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp Trung ương và cấp tỉnh để tập hợp các chuyên gia, nhà khoa học tư vấn cho công tác Mặt trận.
Ở cơ sở, thành lập Ban Công tác Mặt trận ở khu dân cư với tư cách là "cánh tay nối dài" của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ở cấp cơ sở để đưa công tác Mặt trận đến tận hộ gia đình, cụm dân cư.
Như vậy, trên nền tảng Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam, căn cứ vào thực tiễn của từng giai đoạn cách mạng Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã có nhiều lần đổi mới hình thức tổ chức, bộ máy của mình để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ mới mà thực tiễn đặt ra.
3. Yêu cầu của giai đoạn mới của cách mạng Việt Nam đối với vai trò, nhiệm vụ của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là một căn cứ thực tiễn của việc đổi mới tổ chức, bộ máy của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng xác định sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới đứng trước thời cơ, thuận lợi, khó khăn, thách thức mới đen xen với nhau, đòi hỏi "phải tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy, có quyết tâm chính trị cao, dự báo chính xác, kịp thời diễn biến của tình hình, chủ động ứng phó kịp thời với mọi tình huống, nỗ lực hơn nữa để tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới,... đưa đất nước vững bước tiến lên, phát triển nhanh và bền vững"15.
Trên cơ sở đó, Đại hội XIII của Đảng xác định đổi mới tổ chức của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là một trong 12 nội dung định hướng nhiệm vụ phát triển đất nước trong tình hình mới, cụ thể: "Tiếp tục đổi mới tổ chức, nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội"16. Đồng thời, Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng khẳng định trong giai đoạn mới hệ thống chính trị nước ta vận hành theo cơ chế: "Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội làm nòng cốt để nhân dân làm chủ"17.
Về mặt lý luận, cần làm rõ vai trò "nòng cốt để nhân dân làm chủ" của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với tư cách là một tổ chức liên minh chính trị duy nhất, rộng rãi nhất ở Việt Nam trong điều kiện một Đảng chính trị duy nhất cầm quyền nhưng bảo đảm việc phát huy quyền làm chủ của Nhân dân. Về thực tiễn thì đây là yêu cầu mới, nhiệm vụ mới, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam được xác lập vai trò "nòng cốt" để Nhân dân làm chủ trong hệ thống chính trị và đời sống xã hội. Do đó, tổ chức và bộ máy của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phải được đổi mới để phù hợp với nội dung, phương thức hoạt động của một tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện.
Với tư cách vừa là tổ chức thành viên, vừa là người lãnh đạo, Đảng đã có những nội dung, công việc thể hiện đổi mới tổ chức và sự lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam làm cơ sở thực tiễn của việc đổi mới tổ chức, bộ máy của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Đổi mới về tổ chức Đảng trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Ngày 7/2/2023, Bộ Chính trị ban hành Quyết định số 97-QĐ/TW, quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức, mối quan hệ công tác của Đảng đoàn, ban cán sự đảng ở Trung ương, trong đó Đảng đoàn Mặt trận Tổ quốc Việt Nam do Bộ Chính trị thành lập và quản lý. Thành viên Đảng đoàn Mặt trận Tổ quốc Việt Nam theo quy định mới thể hiện sự cụ thể hóa của tổ chức liên minh chính trị, "gồm: Chủ tịch, các Phó Chủ tịch, trưởng các tổ chức chính trị - xã hội, các Ủy viên Trung ương Đảng (chính thức và dự khuyết) tham gia Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Trưởng Ban Tổ chức cán bộ cơ quan Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam làm Bí thư Đảng đoàn, 1 Phó Chủ tịch - Tổng Thư ký Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam làm Phó Bí thư Đảng đoàn"18. Đây là lần đầu tiên, Đảng đổi mới việc thành lập, quản lý tổ chức và hoạt động của tổ chức Đảng trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ở Trung ương.
Đồng thời, ngày 6/9/2023 Bộ Chính trị ban hành Quyết định số 120-QĐ/TW quyết định về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy cơ quan Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Đây cũng là lần đầu tiên bộ máy giúp việc của Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam do Bộ Chính trị quyết định thành lập và chỉ đạo hoạt động. Việc thành lập này đã nói lên sự quyết tâm tâm của Đảng trong lãnh đạo, chỉ đạo việc thực hiện đổi mới tổ chức, bộ máy của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong tình hình mới.
Bám sát cơ sở lý luận và thực tiễn trong quá trình thực hiện việc đổi mới tổ chức, bộ máy của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong tình hình mới là nhiệm vụ vừa mang tính cấp bách, vừa mang tính chiến lược để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thực hiện tốt vai trò, nhiệm vụ của mình, góp phần quan trọng vào thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời gian tới.
Chú thích:
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 13, tr. 452, 453.
2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 3, tr. 168.
3. Mặt trận Việt Minh; Hội Liên Việt; Mặt trận Liên Việt; Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam; Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hòa bình Việt Nam.
4. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 13, tr. 453.
5. Báo Điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam. Hệ thống Tư liệu - Văn kiện Đảng. https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/van-kien-tu-lieu-ve-dang/hoi-nghi-bch-trung-uong/khoa-vi/nghi-quyet-so-08b-nqhntw-ngay-2731990-hoi-nghi-lan-thu-tam-ban-chap-hanh-trung-uong-dang-khoa-vi-ve-doi-moi-cong-tac-quan-1110.
6. Phần chữ đậm nét là nhấn mạnh của tác giả.
7. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII. http://tulieuvankien.dangcongsan.vn/ban-chap-hanh-trung-uong-dang/dai-hoi-dang/lan-thu-vii.
8. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI. http://tulieuvankien.dangcongsan.vn/ban-chap-hanh-trung-uong-dang/dai-hoi-dang/lan-thu-xi.
9,10. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. http://tulieuvankien.dangcongsan.vn/ban-chap-hanh-trung-uong-dang/dai-hoi-dang/lan-thu-xiii.
11,12. Nguyễn Phú Trọng. Phát huy truyền thống đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng đất nước ta ngày càng giàu mạnh, văn minh, hạnh phúc. Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2023, tr. 44, 39.
13. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đảng 1930 - 1945, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 3, tr. 271-272.
14. Riêng khóa III (1988) có chức danh Phó Chủ tịch Đoàn Chủ tịch là cụ Phan Anh và cụ Phạm Văn Kiết.
15,16,17. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng.
18. Bộ Chính trị. Quyết định số 97-QĐ/TW ngày 7/2/2023 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức, mối quan hệ công tác của Đảng đoàn, ban cán sự đảng ở Trung ương.
LÊ BÁ TRÌNH - Phó Giáo sư, Tiến sĩ, Ủy viên Đoàn Chủ tịch,
nguyên Phó Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
Nguồn Mặt Trận : http://tapchimattran.vn/nghien-cuu/co-so-ly-luan-va-thuc-tien-ve-doi-moi-to-chuc-bo-may-cua-mat-tran-to-quoc-viet-nam-trong-giai-doan-moi-58573.html