Cởi trói điều kiện kinh doanh

Cởi trói điều kiện kinh doanh
3 giờ trướcBài gốc
Luật Đầu tư sửa đổi cần phản ánh tinh thần cải cách thể chế, cắt bỏ rào cản không cần thiết, tăng giám sát hậu kiểm, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh. Ảnh minh họa: Lê Vũ
Cuối tuần trước (ngày 18-9-2025), Tổng Bí thư Tô Lâm chủ trì cuộc làm việc với Ban Thường vụ Đảng ủy Chính phủ về nội dung của bốn dự án luật, trong đó có Luật Đầu tư.
Tổng Bí thư yêu cầu dự án Luật Đầu tư phải quán triệt chỉ đạo tại Nghị quyết 68 -NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân; phải tạo môi trường kinh doanh thông thoáng, minh bạch, ổn định, an toàn, dễ thực thi, chi phí thấp, đạt chuẩn quốc tế, bảo đảm khả năng cạnh tranh khu vực, toàn cầu; đồng thời tháo gỡ những “điểm nghẽn” hiện hữu và tạo điều kiện thuận lợi hơn cho sự phát triển của doanh nghiệp.
Cùng với đó, các quy định về điều kiện đầu tư kinh doanh phải thể hiện đúng tinh thần “chuyển mạnh từ tiền kiểm sang hậu kiểm gắn với tăng cường kiểm tra, giám sát”; bảo đảm việc đặt ra ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện là “vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe cộng đồng”, còn lại triệt để cắt giảm theo đúng chủ trương của Đảng, Nhà nước.
Để cơ chế hậu kiểm phát huy tác dụng, Nhà nước phải đầu tư bài bản vào năng lực quản lý. Đội ngũ công chức cần được đào tạo kỹ năng phân tích, đánh giá rủi ro thay vì chỉ xử lý giấy tờ.
Việc quy định ngành, nghề ưu đãi đầu tư cần bao quát hết chính sách phát triển năng lượng tái tạo, năng lượng hạt nhân, năng lượng mới đã đề cập trong Nghị quyết 70-NQ/TW về bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
Chỉ đạo của Tổng Bí thư không chỉ là yêu cầu kỹ thuật của một đạo luật, mà còn là chỉ dấu cho quyết tâm cải cách thể chế kinh tế.
Danh mục ngành, nghề kinh doanh có điều kiện được quy định tại Luật Đầu tư năm 2014, gồm 267 ngành, nghề; tới Luật Đầu tư năm 2020 giảm xuống còn 230 ngành, nghề, góp phần tạo môi trường kinh doanh thuận lợi hơn. Tuy nhiên, như đánh giá của Bộ Tài chính, việc cắt giảm danh mục này không thực chất, chủ yếu dưới dạng gộp tên ngành, nghề hoặc sử dụng tên ngành, nghề có phạm vi điều chỉnh rộng để rút gọn số lượng. Đáng chú ý, phần lớn ngành, nghề kinh doanh có điều kiện áp dụng cơ chế tiền kiểm, tức là phải xin giấy phép mới được kinh doanh, trong khi thực tế, có những ngành, nghề không nhất thiết kiểm soát theo cơ chế này bởi đã được quản lý bằng quy chuẩn, tiêu chuẩn kỹ thuật.
Báo cáo Dòng chảy pháp luật 2024 của Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam cũng cho rằng, tư duy tiền kiểm vẫn hiện hữu trong nhiều chính sách, với các biện pháp quản lý “quá mức cần thiết”. Về nguyên tắc, khi xác định một ngành nghề kinh doanh thuộc diện có điều kiện, cần phải xác định được những lợi ích công cộng nào mà ngành nghề đó tác động và Nhà nước muốn kiểm soát. Nhưng trên thực tế, các nhà soạn thảo chính sách chưa thực sự chú trọng đến việc giải trình lợi ích công cộng khi đặt ra điều kiện kinh doanh. Vì vậy, việc xác định các biện pháp quản lý bằng điều kiện kinh doanh chưa chính xác, tạo gánh nặng chi phí tuân thủ cho doanh nghiệp.
Lần này, Bộ Tài chính đề xuất bãi bỏ 16 ngành, nghề trong Danh mục ngành, nghề kinh doanh có điều kiện và thu hẹp, xem xét lại phạm vi của năm ngành, nghề; đồng thời quy định rõ điều kiện đầu tư kinh doanh “không bao gồm các quy chuẩn, tiêu chuẩn kỹ thuật mà cấp có thẩm quyền ban hành về chất lượng sản phẩm, dịch vụ” để có cơ sở chuyển một số ngành, nghề sang áp dụng cơ chế hậu kiểm.
Con số ngành, nghề được đề xuất bãi bỏ như vậy vẫn khá khiêm tốn. Bộ Tài chính cần tiếp tục rà soát và đề xuất cắt giảm theo nguyên tắc Tổng Bí thư đã đưa ra. Những lĩnh vực không ảnh hưởng đến lợi ích công cộng nên được “cởi trói” để doanh nghiệp tự do sáng tạo. Khi không còn những ràng buộc không cần thiết, doanh nghiệp sẽ dồn lực vào đổi mới, cải tiến chất lượng sản phẩm, dịch vụ. Người tiêu dùng hưởng lợi từ sự đa dạng, giá cả hợp lý; nền kinh tế hưởng lợi từ nguồn lực xã hội được giải phóng. Tác động tích cực còn thể hiện ở khả năng thu hút đầu tư quốc tế. Cải cách điều kiện kinh doanh, gắn với cơ chế hậu kiểm hiện đại, chính là thông điệp mạnh mẽ rằng Việt Nam nghiêm túc cải thiện năng lực cạnh tranh. Đây sẽ là lợi thế lớn trong cuộc đua thu hút dòng vốn chất lượng cao, đặc biệt trong bối cảnh các chuỗi cung ứng toàn cầu đang tái định hình.
Với các ngành, nghề kinh doanh có điều kiện, chuyển từ “tiền kiểm” sang “hậu kiểm” như chỉ đạo của Tổng Bí thư, là thay đổi căn bản tư duy quản lý. Thay vì buộc doanh nghiệp phải vượt qua hàng loạt thủ tục mới được gia nhập thị trường, Nhà nước sẽ để họ chủ động khởi sự kinh doanh, đồng thời tập trung nguồn lực vào giám sát quá trình vận hành, xử lý sai phạm khi phát sinh.
Để cơ chế hậu kiểm phát huy tác dụng, Nhà nước phải đầu tư bài bản vào năng lực quản lý. Đội ngũ công chức cần được đào tạo kỹ năng phân tích, đánh giá rủi ro thay vì chỉ xử lý giấy tờ. Hệ thống pháp lý cần quy định rõ trách nhiệm và chế tài xử phạt, tránh tình trạng buông lỏng hay “thả nổi”. Ngược lại, về phía doanh nghiệp, văn hóa tuân thủ phải trở thành nguyên tắc. Trong môi trường minh bạch, bất kỳ hành vi vi phạm nào cũng dễ dàng bị phát hiện. Sự trưởng thành về ý thức pháp lý của doanh nghiệp là điều kiện tiên quyết để hậu kiểm vận hành ổn định.
Tất nhiên, thành công không đến chỉ nhờ vào việc sửa đổi một đạo luật. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, hậu kiểm chỉ phát huy tác dụng nếu đi kèm hệ thống pháp luật minh bạch là cơ chế giải trình nghiêm ngặt và sự độc lập của bộ máy giám sát. Điều đó đòi hỏi sự phối hợp đồng bộ giữa các bộ, ngành và chính quyền địa phương, cũng như cam kết duy trì tính ổn định của chính sách. Bất kỳ sự chồng chéo hay thay đổi tùy tiện nào đều có thể làm suy giảm niềm tin của doanh nghiệp.
Nghị quyết 68-NQ/TW đã khẳng định phát triển kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế. Để động lực ấy phát huy, Nhà nước phải thực sự đóng vai trò kiến tạo thay vì can thiệp quá sâu. Hơn nữa, trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu ngày càng gay gắt, nền kinh tế Việt Nam không thể tiếp tục bị níu chân bởi cơ chế “xin - cho”. Một môi trường đầu tư minh bạch, chi phí thấp, cạnh tranh toàn cầu không chỉ là mong đợi của doanh nghiệp, mà còn là điều kiện tiên quyết để Việt Nam nâng cao vị thế trong chuỗi giá trị quốc tế. Sửa Luật Đầu tư, vì thế, không đơn thuần là hoàn thiện một văn bản pháp lý, mà còn minh chứng cho quyết tâm cải cách thể chế. Và cải cách lần này, nếu đi đến cùng, có thể trở thành cú hích quan trọng giúp nền kinh tế bứt phá trong giai đoạn mới.
An Nhiên
Nguồn Saigon Times : https://thesaigontimes.vn/coi-troi-dieu-kien-kinh-doanh/