Sau 1954, người Việt mới phát triển mô hình nông trường chăn nuôi bò. Nông trường Mộc Châu là nông trường đầu tiên được thành lập năm 1958, tiếp đó là nông trường Ba Vì những năm 1959-1960 với các giống bò sữa được nhập từ Trung Quốc và Cu Ba. Thế nhưng không vì số lượng ít mà các tác phẩm về con bò kém phần đặc sắc. Sau đây chúng ta sẽ cùng ngược dòng lịch sử để ôn lại những sáng tác tiêu biểu nhất liên quan đến con bò.
Một tác phẩm trong bộ tranh “Nguyện cầu” của nhà thơ Nguyễn Quang Thiều.
Trong văn học hiện đại Việt Nam, bài thơ về con bò gây ấn tượng độc đáo đầu tiên là một bài thơ dành cho thiếu nhi, bài “Chú bò tìm bạn” của nhà thơ Phạm Hổ, in trong tập thơ cùng tên năm 1956: Mặt trời rúc bụi tre/ Buổi chiều về nghe mát/ Bò ra sông uống nước/ Thấy bóng mình, ngỡ ai/ Bò chào: - “Kìa anh bạn!/ Lại găp anh ở đây!”/ Nước đang nằm nhìn mây/ Nghe bò, cười toét miệng/ Bóng bò chợt tan biến/ Bò tưởng bạn đi đâu/ Cứ ngoái trước nhìn sau/ “Ậm ò” tìm gọi mãi.
Vẻ đẹp của bài thơ “Chú bò tìm bạn” có lẽ nằm ở thủ pháp nhân cách hóa tài tình được tác giả sử dụng xuyên suốt bài thơ. Lấy chú bò làm trung tâm, cả một thế giới xung quanh chú bò hiện lên ngộ nghĩnh, đáng yêu. Mặt trời không lặn mà rúc bụi tre, buổi chiều biết lắng nghe, nước biết cười nhoẻn miệng…Và đặc biệt là chú bò nhìn bóng mình mà cứ ngỡ là ai. Tiếng “ậm ò” của chú bò đã trở thành lời chào, lời gọi bạn thân thương, mang trong đó cả những ngơ ngác, dường như có cả một chút buồn vì không biết người bạn đi đâu. Thủ pháp nhân hóa làm chú bò giống như một người bạn nhỏ, có những biểu hiện cảm xúc thật sống động, làm mỗi chúng ta đọc xong bài thơ vẫn còn lưu luyến mãi.
Năm 1960, nhà văn Hồ Phương sáng tác truyện ngắn “Cỏ non” với bối cảnh vùng đồi Con Cuông, Nghệ An. Nhân vật chính trong truyện là Nhẫn, người công nhân phụ trách việc chăn nuôi bò. Tác phẩm được viết trong cảm hứng xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, mang đến cho người đọc một tinh thần hăng say lao động không quản ngại gian khó, một không khí tươi sáng đầy lạc quan: “Cả đàn bò rống lên sung sướng. Nhẫn cũng phải đứng dừng lại một bước, hai mắt sáng rực lên. Qua có mấy đêm mưa phùn mà cả khu đồi Con Cuông đã thay đổi hẳn bộ mặt. Cỏ non đã mọc tua tủa. Một màu xanh non ngọt ngào, thơm mát trải ra mênh mông trên khắp các sườn đồi”.
Người đọc còn nhớ mãi tên của từng con bò trong truyện như: con Nâu, con Hoa, chị Vàng, cu Tũn và đặc biệt là con Ba Bớp hay vi phạm kỷ luật, tách đàn chạy đi chơi. Tình cảm của Nhẫn với đàn bò không chỉ là nhiệm vụ công việc đơn thuần mà anh yêu đàn bò như những đứa con trong gia đình. Khi con Ba Bớp vấp phải tảng đá ở lòng suối cạn và bị trẹo chân, Nhẫn đã kêu lên đầy thương xót: “Khổ chưa con? Ai bảo quẩng mỡ chạy đi cho nó khổ thế này? Có đau lắm không?” Truyện được mở đầu và kết thúc đều bằng những hình ảnh cỏ non như ẩn dụ cho một sức sống đang căng đầy, vươn trào.
Nếu như Hồ Phương làm nên một hình tượng anh Nhẫn chăn bò ấn tượng trong văn xuôi thì Bùi Giáng tạo được một hình tượng chăn bò độc đáo trong thơ: Anh lùa bò vào đồi sim trái chín/ Cho bò ăn cỏ giữa rừng sim/ Anh nhìn lên trời xanh đỏ chín/ Anh ngó bốn bề cây lá gió rung rinh…/Cây lá bốn bề song song từng lứa/Sánh đôi nhau như ứa lệ ngàn ngàn/ Hạnh phúc trời với đất mang mang/ Với bò giữa rừng hoang đương gặm cỏ/ Với người ngó ngất ngây đương nằm đó/ Không biết trời đất có ngó mình không (Anh lùa bò vào đồi sim trái chín, 1950)
Ở miền Nam Việt Nam trong khoảng từ 1966 đến 1972, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã sáng tác hàng loạt các ca khúc phản chiến, trong đó có bài “Du mục”. Hình ảnh đàn bò đi vào một thành phố hoang vắng xuyên suốt từ phần đầu đến phần cuối trong lời ca của bài hát: Đàn bò vào thành phố/ Đêm buồn vắng buồn hơn/ Đàn bò vào thành phố/ Không còn ai hỏi thăm/ Đàn bò tìm dòng sông/ Nhưng dòng nước cạn khô/ Đàn bò bỗng thấy buồn, bỗng thấy buồn/ Rồi một hôm đứng mơ mây ngàn (…) Đàn bò vào thành phố/ Reo buồn tiếng hạt chuông/ Một người vào thành phố/ Nghe hồn giá lạnh băng.
Nói đến đàn bò mà phải chăng để nói về thân phận điêu tàn của con người trong cuộc chiến. Đàn bò vốn sinh ra để phục vụ cho đời sống của con người, được chăn nuôi và chăm sóc cẩn thận. Vậy mà bây giờ đàn bò đi lang thang. Dường như một nguồn sống đang tàn phai bởi sự bình yên không còn nữa trên mảnh đất này.
Cũng viết về con bò trong chiến tranh, nhà thơ Văn Lê có bài thơ “Tiếng gọi bò” năm 1971. Nếu như anh Nhẫn trong truyện ngắn “Cỏ non” sau một hồi tìm kiếm vất vả đã thấy được con Ba Bớp thì người mẹ và em thơ trong bài “Tiếng gọi bò” chỉ biết kiếm tìm trong vô vọng: Tiếng của mẹ già sặc sụa với cơn ho/ Tiếng gọi của em thơ nghe buồn như khóc/ Tiếng gọi bò vần ta trằn trọc/ Trong căn hầm trống trải ven sông/ …Pháo giặc trời xa vẫn nổ ì ầm/ Mẹ ơi! Không thể thấy bò đâu, dù suốt đêm mẹ gọi/ Đồn giặc rất xa, gió không mang tới/ Con bò của mẹ giữa vòng gai/ Tiếng gọi bò ở hai đầu đêm nay/ Cứ vần súng và ta trằn trọc...
Năm 1981, khi đất nước đã thống nhất được 6 năm, con người được sống trong hòa bình yên ổn, không còn phải lo sợ bom đạn chiến tranh, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm viết bài thơ “Chiều Hương giang” nổi tiếng mà trong đó, con bò là điểm nhấn đặc biệt quan trọng trong khung cảnh yên bình: Nhưng chiều nay con bò gặm cỏ/ Bên dòng sông như chưa biết chiều tan/ Tôi với nó lặng im, bè bạn/ Mắt nó nhìn dìu dịu nước Hương Giang. Một sự tề đồng vật ngã cao độ giữa chủ thể và khách thể, giữa người và vật, giữa tâm cảnh và ngoại cảnh. Con bò bình yên và lòng người cũng bình yên.
Nếu như câu cuối khổ thơ thứ hai tả mắt con bò dìu dịu nước Hương giang thì đến câu cuối khổ thơ thứ ba, cũng là khổ thơ khép lại thi phẩm, Nguyễn Khoa Điềm hạ bút: Nhưng chiều nay vô tình trong nắng muộn/ Mắt tôi nhìn trong suốt nước Hương giang. Có những sự đắc ngộ đến một cách tự nhiên không hề định trước, mà từ đó con người hiểu ra những giá trị cuộc sống thật gần gũi ở quanh mình.
Nhiều thập niên trôi qua kể từ bài thơ của Nguyễn Khoa Điềm, không có thêm một bài thơ nào với hình ảnh con bò khiến cho tôi chú ý. Cho đến những ngày đầu xuân vừa qua, khi nhà thơ Nguyễn Quang Thiều công bố trường ca “Lò Mổ”, đây thực sự là một ấn tượng lớn. Cho đến lúc này, trong văn học Việt Nam, “Lò Mổ” là tác phẩm thơ có dung lượng lớn nhất viết về con bò, xoay quanh con bò, lấy lò mổ bò làm không gian trung tâm.
“Lò Mổ” là cuộc kết hợp thơ – họa đặc sắc khi 18 phụ bản tranh minh họa đều do chính nhà thơ Nguyễn Quang Thiều vẽ. “Lò Mổ” tạo nên những hiệu ứng thị giác độc đáo cho từng tranh sách, trong đó phải kể đến chương thứ ba của trường ca mang tên “Bầy ruồi” chỉ có một chữ ruồi duy nhất được lặp lại triền miên theo những sắp đặt vị trí khác nhau trên trang giấy, mức độ đậm nhạt, xa gần, tâm biên thay đổi qua 15 trang.
“Lò Mổ” gồm 18 chương với hai nhân vật chính là chàng trai và con bò (những con bò, đàn bò). Ngoài ra còn có các nhân vật khác vây quanh như: chủ lò mổ, chủ nhà trọ, nàng, cha xứ, bầy ruồi. Hành trình của “Lò Mổ” là hành trình đi từ cái chết về sự sống, từ cái ác hướng về cái thiện. Chương một mở đầu với cái chết của con bò trong lò mổ dưới bàn tay đồ tể nhưng đôi mắt bò trước sau không có gì thay đổi: Đôi mắt mở dịu dàng/ Buồn bã/ Không bao giờ rơi lệ… Đôi mắt/ Mùa thu xa xôi.
Những tự sự của con bò còn trải khắp trong các chương của trường ca: Con là một con bò mùa thu/ Thức dậy trong ban mai huyền ảo/ Đã đến giờ con ra đi…Tấm da nặng nề đã trút khỏi/ Con bay qua ô cửa sổ lò mổ/ Con để lại cái đầu/ Cặp sừng ngà lấp lánh/ Con để lại đôi mắt/ Ngôi sao Hôm thăm thẳm/ Con để lại chum máu/ Phần sống nóng hổi và tự tin/ Con để lại tấm da/ Trĩu buồn manh áo cũ/ Con để lại tiếng rống/ Reo ca trên cánh đồng/Con để lại cổ họng/ Lưỡi dao buồn ngủ sâu. Tác giả viết về cái chết của con bò như một sự ra đi nhẹ nhàng, bình thản. Viết về sự sống chết của con bò mà khiến mỗi chúng ta không thôi nghĩ về đời sống của mỗi con người.
Chương cuối cùng khép lại trường ca cũng là khi chú bê con được sinh ra, một sự sống nhóm lên thay thế cho cái chết: Sau tiếng rống dội vang/ Tiếng kèn hiệu/ Một chú bê được sinh ra/ Con bò gục xuống sàn đá lạnh/…Chàng nghe trái tim non nớt của con bê/ Đập rung lên từng hồi/ Quả chuông lớn nhất thế gian/ Làm tan đi những gào thét. “Lò Mổ” là một trình hiện thành công khi tạo ra một liên văn bản từ siêu thực đến hậu hiện đại, hòa trộn giữa hiện thực và lãng mạn huyền ảo, tạo nên một thi giới vừa bi thương vừa dữ dội mãnh liệt, dồn nén những sức nặng của tư tưởng.
Con bò trong văn chương Việt đi từ thập niên 50 của thế kỷ trước đến thập niên thứ ba của thế kỷ này đã tạo ra những bước tiến dài về thế giới quan và tư duy sáng tạo của người nghệ sĩ.
Đỗ Anh Vũ