Phó Chủ nhiệm Văn phòng Chủ tịch nước Phạm Thanh Hà công bố Lệnh của Chủ tịch nước đối với 3 luật vừa được Quốc hội thông qua tại kỳ họp bất thường lần thứ 9 - Ảnh: VGP/Nguyễn Hoàng
Tại họp báo, Phó Chủ nhiệm Văn phòng Chủ tịch nước Phạm Thanh Hà đã công bố Lệnh của Chủ tịch nước đối với 3 luật vừa được Quốc hội thông qua tại kỳ họp bất thường lần thứ 9, gồm: Luật Tổ chức Chính phủ; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Quốc hội và Luật Tổ chức chính quyền địa phương.
Phân định thẩm quyền, phân quyền, phân cấp, ủy quyền, làm căn cứ pháp lý quan trọng để xây dựng, sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện các luật chuyên ngành
Luật Tổ chức Chính phủsố 63/2025/QHXV được Quốc hội thông qua ngày 18/2/2025 tại kỳ họp bất thường lần thứ 9, có hiệu lực thi hành từ ngày 1/3/2025.
Luật Tổ chức Chính phủ được xây dựng trong bối cảnh đặc biệt của đất nước và được sửa đổi cùng thời điểm trong tổng thể chùm các Luật về tổ chức bộ máy, bám sát chủ trương của Đảng về xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và yêu cầu thực tiễn đặt ra về tổ chức, hoạt động của Chính phủ, với vai trò là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, cơ quan chấp hành của Quốc hội; đồng thời, xác định Luật này là Luật gốc của nền hành chính nhà nước, làm cơ sở cho việc tổ chức, hoạt động của Chính phủ, trong đó quy định những nguyên tắc chung về phân định thẩm quyền, phân quyền, phân cấp, ủy quyền, làm căn cứ pháp lý quan trọng để xây dựng, sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện các luật chuyên ngành, bảo đảm đồng bộ, thống nhất trong hệ thống pháp luật.
Nội dung cơ bản của Luật được thiết kế ngắn gọn gồm 5 Chương, 32 Điều bảo đảm tính kế thừa và khái quát cao theo yêu cầu đổi mới xây dựng pháp luật của Tổng Bí thư và Quốc hội, bảo đảm tính ổn định và tuổi thọ lâu dài trong hệ thống pháp luật.
Lần đầu tiên tại Luật Tổ chức Chính phủ thiết kế các điều về phân định thẩm quyền, phân cấp, phân quyền, ủy quyền, là căn cứ pháp lý quan trọng mang tính nguyên tắc để phân định rõ nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ và mối quan hệ giữa Chính phủ với các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, cơ quan thực hiện quyền tư pháp; mối quan hệ giữa Chính phủ với chính quyền địa phương; các quy định mang tính nguyên tắc tại Luật này là căn cứ pháp lý quan trọng để xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật chuyên ngành được đồng bộ, thống nhất.
Một số điểm mới của Luật được thể hiên qua các nội dung như: Luật đã giải quyết được mối quan hệ giữa Chính phủ với các cơ quan trong hệ thống bộ máy nhà nước, giữa cơ quan thực hiện quyền hành pháp với cơ quan thực hiện quyền lập pháp, cơ quan thực hiện quyền tư pháp.
Luật đã làm rõ nhiệm vụ, quyền hạn, thẩm quyền của Thủ tướng Chính phủ với tư cách là người đứng đầu Chính phủ, lãnh đạo và chịu trách nhiệm về hoạt động của hệ thống hành chính nhà nước từ trung ương đến địa phương; làm nổi bật nhiệm vụ của Thủ tướng Chính phủ trong lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành hoạt động của hệ thống hành chính nhà nước từ trung ương đến địa phương.
Các quy định tại Luật đã làm rõ thẩm quyền của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ với tư cách là người đứng đầu Bộ và với tư cách là thành viên Chính phủ.
Luật đã làm rõ mối quan hệ giữa Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ với chính quyền địa phương thông qua các nguyên tắc phân định thẩm quyền, phân quyền, phấn cấp, ủy quyền, bảo đảm bám sát phương châm: "địa phương quyết, địa phương làm, địa phương chịu trách nhiệm", tạo cơ chế giải quyết kịp thời những khó khăn, vướng mắc về thể chế, khơi thông nguồn lực, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước từ trung ương đến địa phương.
Nguyên tắc thiết kế của Luật lần này được xem là một đột phá lớn, một quyết định mang tính lịch sử của Quốc hội khi lần đầu tiên trong lịch sử lập pháp của nước ta Quốc hội giao cho Chính phủ thực hiện những nhiệm vụ quan trọng, cấp bách, chưa có tiền lệ, trong một thời điểm lịch sử đặc biệt của đất nước. Đây là một quyết định táo bạo, thể hiện sự "đột phá về tư duy lập pháp", thể hiện tinh thần đổi mới, dám nghĩ, dám làm của Chính phủ trong đề xuất xây dựng Luật và tinh thần đổi mới mạnh mẽ trong công tác lập pháp của Quốc hội.
Định rõ cơ cấu tổ chức của Hội đồng, Ủy ban bảo đảm thuận lợi cho việc tiếp tục thực hiện chủ trương sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy
Ngày 17/2/2025, Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Quốc hội với 461/461 đại biểu biểu quyết tán thành, chiếm 96,44% tổng số đại biểu Quốc hội. Luật có hiệu lực thi hành từ ngày 17/2/2025.
Việc ban hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Quốc hội là cần thiết nhằm thực hiện chủ trương về sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy của các cơ quan trong hệ thống chính trị.
Nội dung sửa đổi, bổ sung tập trung phục vụ việc sắp xếp, kiện toàn các cơ quan của Quốc hội và Văn phòng Quốc hội, kết hợp điều chỉnh một số quy định liên quan đến hoạt động của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, Văn phòng Quốc hội, đại biểu Quốc hội và kỳ họp Quốc hội.
Các nội dung sửa đổi, bổ sung bảo đảm đồng bộ, thống nhất với Luật Tổ chức Chính phủ (sửa đổi) và Luật Tổ chức chính quyền địa phương (sửa đổi) cũng được Quốc hội thông qua tại Kỳ họp bất thường lần thứ 9.
Về bố cục và nội dung, Luật sửa đổi, bổ sung 21 điều và bãi bỏ 17 điều của Luật Tổ chức Quốc hội với các nội dung cơ bản như: Luật sửa đổi, bổ sung quy định tại Điều 5 nhằm cụ thể hóa nội dung về đổi mới tư duy trong công tác xây dựng pháp luật, xác định rõ phạm vi những nội dung cần được quy định bằng luật, nghị quyết của Quốc hội và quy định có tính nguyên tắc, định hướng về mức độ chi tiết cần được quy định trong luật, làm cơ sở cho việc thực hiện thẩm quyền làm luật và sửa đổi luật của Quốc hội.
Sửa đổi, bổ sung quy định về cơ quan của Quốc hội (Chương IV của Luật Tổ chức Quốc hội) theo hướng thay đổi cách thức quy định về Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội và xác định rõ cơ cấu tổ chức của Hội đồng, Ủy ban bảo đảm thuận lợi cho việc tiếp tục thực hiện chủ trương sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy, hài hòa về cơ cấu tổ chức với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan.
Sửa đổi, bổ sung quy định về Tổng Thư ký Quốc hội, Văn phòng Quốc hội, các cơ quan thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội (các Điều 98, 99, 100 của Luật Tổ chức Quốc hội) phù hợp với Kết luận số 111-KL/TW của Bộ Chính trị như: xác định Tổng Thư ký Quốc hội đồng thời là Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội; không quy định về Phó Tổng Thư ký, Ban Thư ký, về cơ quan của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Sửa đổi, bổ sung một số quy định liên quan đến hoạt động của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội và đại biểu Quốc hội (các điều 12, 13, 30, 33 39, 48, 90, 91, 92 của Luật Tổ chức Quốc hội) như: việc Quốc hội lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ các chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn; việc đại biểu Quốc hội tham gia làm thành viên và tham gia hoạt động của Hội đồng Dân tộc, Ủy ban của Quốc hội; trường hợp tạm đình chỉ việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của đại biểu Quốc hội và thẩm quyền của Ủy ban Thường vụ Quốc hội trong xây dựng luật, pháp lệnh, nghị quyết, về kinh phí hoạt động của Quốc hội; về kỳ họp của Quốc hội.
Họp báo công bố Lệnh của Chủ tịch nước công bố 3 luật vừa được Quốc hội khóa XV thông qua tại kỳ họp bất thường lần thứ 9 - Ảnh: VGP/Nguyễn Hoàng
Quy định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND và UBND ở mỗi đơn vị hành chính
Ngày 19/2/2025, Quốc hội đã thông qua Luật Tổ chức chính quyền địa phương với 458/459 đại biểu có mặt biểu quyết tán thành, chiếm 96,03% tổng số đại biểu Quốc hội. Luật có hiệu lực thi hành từ ngày 1/3/2025.
Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2025 được thiết kế xây dựng trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản: Xây dựng Luật này là Luật chung, quy định các nguyên tắc về phân định thẩm quyền, phân quyền, phân cấp, ủy quyền của chính quyền địa phương, làm cơ sở để các luật chuyên ngành khi quy định nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương trong các lĩnh vực cụ thể phải bảo đảm phù hợp và thống nhất với quy định của Luật này.
Tạo hành lang pháp lý để xử lý những vấn đề thực tiễn, tháo gỡ "điểm nghẽn về thể chế, chính sách" nhằm thực hiện được ngay các quan điểm chỉ đạo của Đảng về đẩy mạnh phân cấp, phân quyền giữa trung ương và địa phương, giữa các cấp chính quyền địa phương, phát huy tính chủ động, sáng tạo của địa phương theo phương châm "địa phương quyết, địa phương làm, địa phương chịu trách nhiệm"; "cấp nào giải quyết hiệu quả hơn thì giao nhiệm vu, thẩm quyền cho cấp đó".
Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật, theo đó luật chỉ quy định những vấn đề có tính nguyên tắc, đúng thẩm quyền của Quốc hội nhằm bảo đảm tính ổn định lâu dài của luật, đồng thời dự liệu các vấn đề có thể thay đổi, biến động theo từng thời kỳ phát triển của đất nước để giao Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ quy định.
Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2025 gồm 7 chương, 50 điều, giảm 1 chương và 93 điều so với Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2019 (Luật năm 2015) với các điểm mới cơ bản như: Luật quy định 1 chương về phân định thẩm quyền, phân quyền, phân cấp, ủy quyền giữa chính quyền địa phương các cấp.
Thực hiện nguyên tắc "rõ người, rõ việc, rõ trách nhiệm" và tránh quy định chồng chéo, trùng lặp nhiệm vụ, quyền hạn giữa các cấp chính quyền địa phương và giữa các cơ quan của chính quyền địa phương, dự thảo Luật quy định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND và UBND ở mỗi đơn vị hành chính theo hướng: Phân định nhiệm vụ, quyền hạn giữa các cấp chính quyền địa phương và giữa HĐND và UBND cùng cấp.
Phân định nhiệm vụ, quyền hạn của tập thể UBND và cá nhân Chủ tịch UBND nơi tổ chức cấp chính quyền địa phương theo hướng tăng nhiệm vụ, thẩm quyền, trách nhiệm cho cá nhân Chủ tịch UBND. Quy định nhiệm vụ, quyền hạn theo hướng khái quát, tập trung vào các lĩnh vực về tài chính ngân sách, tổ chức bộ máy, biên chế, hoạt động kiểm tra, giám sát... bảo đảm phù hợp với các nguyên tắc phân định thẩm quyền tại Điều 11 của Luật và bảo đảm tính ổn định lâu dài của luật.
Để triển khai thi hành Luật kịp thời, hiệu quả, Bộ Nội vụ đang xây dựng trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Kế hoạch triển khai thi hành Luật, trong đó xác định rõ các công việc như: Tổ chức phổ biến, quán triệt nội dung của Luật; xây dựng văn bản quy phạm pháp luật quy định chi tiết các nội dung được giao trong Luật; sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ các văn bản quy phạm pháp luật để phù hợp với Luật; tổ chức theo dõi, kiểm tra và báo cáo kết quả thi hành pháp luật về thực hiện dân chủ ở cơ sở; trách nhiệm chủ trì và phối hợp của các Bộ, các cơ quan Trung ương và các địa phương; xác định thời hạn và tiến độ hoàn thành nhiệm vụ.
Nguyễn Hoàng