Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo được nhận định sẽ định hình tương lai của Việt Nam, vị thế quốc gia trên trường quốc tế và cuộc sống của người dân trong nhiều thập kỷ tới. Những cải cách mang tính bước ngoặt, đặc biệt là Nghị quyết số 57, đã cho thấy cam kết và quyết tâm mạnh mẽ của Việt Nam.
“Việt Nam sở hữu những lợi thế to lớn, một nguồn nhân lực trẻ và tài năng, nền tảng kinh tế vĩ mô vững chắc, một vị trí chiến lược trong hành lang tăng trưởng của châu Á và một khả năng học hỏi và thích ứng đã được chứng minh. Điều chúng ta cần bây giờ là một chiến lược bài bản”, bà Mariam J. Sherman, Giám đốc Ngân hàng Thế giới phụ trách Việt Nam, Campuchia và Lào, phân tích.
Phân tích này được bà Mariam J. Sherman đưa ra trong phát biểu tại Diễn đàn Thúc đẩy đổi mới sáng tạo và phát triển các ngành công nghệ chiến lược ngày 2/10.
Đúc kết từ kinh nghiệm quốc tế, bà đã chia sẻ một công thức được gọi là “3+1” cho Việt Nam, dựa trên ba trụ cột cốt lõi.
Ba trụ cột này bao gồm nguồn nhân lực chất lượng cao và đội ngũ nhân tài công nghệ đỉnh cao; hệ sinh thái đổi mới sáng tạo với sự gắn kết chặt chẽ giữa cơ sở giáo dục đại học (GDĐH) – viện nghiên cứu, các doanh nghiệp Việt Nam và doanh nghiệp FDI, với Chính phủ; và tăng cường liên kết chuỗi cung ứng giữa các doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp FDI.
Yếu tố "+1" chính là chất keo kết dính, thành tố then chốt giúp vận hành hiệu quả tất cả các trụ cột trên: đó là sự tập trung mạnh mẽ vào một vài cụm động lực đổi mới sáng tạo xuất sắc và có chọn lọc.
Bà Mariam J. Sherman, Giám đốc Ngân hàng Thế giới phụ trách Việt Nam, Campuchia và Lào (bên trái) và Phó thủ tướng Nguyễn Chí Dũng (bên phải) tại diễn đàn. Ảnh: WB
Nhân tài là nền tảng
Trong ngành bán dẫn và các ngành công nghệ cao khác, nền tảng của thành công được xây dựng dựa trên con người: những người lao động có kỹ năng cao, những nhà nghiên cứu hàng đầu và các doanh nhân công nghệ.
Bà Mariam J. Sherman nhấn mạnh, để cạnh tranh trên toàn cầu, Việt Nam sẽ không chỉ cần nhiều sinh viên tốt nghiệp hơn mà quan trọng là cần nhiều hơn nữa các kỹ thuật viên, nhà khoa học và kỹ sư đẳng cấp thế giới.
“Điều đó có nghĩa là cần có những hệ thống đào tạo nhân tài lớn hơn và tốt hơn”, đại diện Ngân hàng Thế giới khẳng định.
Theo đó, các cơ sở GDĐH cần được đầu tư để nâng cao số lượng và chất lượng đào tạo bậc đại học và sau đại học, đồng thời, trao quyền cho giảng viên và sinh viên thực hiện nghiên cứu và tích lũy kinh nghiệm thực tiễn.
Các trường dạy nghề cũng quan trọng không kém khi nên đóng vai trò trung tâm trong việc phát triển nhân tài, cùng doanh nghiệp thiết kế chương trình đào tạo và cung cấp các kỹ thuật viên có kỹ năng cao mà các ngành công nghệ cao luôn cần đến.
Không chỉ vậy, thu hút và giữ chân nhân tài cũng quan trọng như việc phát triển nhân tài.
Gần 65% nhân tài công nghệ hàng đầu của Việt Nam trong các lĩnh vực công nghệ trọng yếu và mới nổi hiện đang làm việc ở nước ngoài. Do vậy, việc tạo ra những điều kiện thuận lợi để thu hút nguồn nhân tài này trở về cống hiến sẽ giúp Việt Nam đi tắt đón đầu, thu hẹp những khoảng cách về tri thức và mạng lưới quan hệ mà nếu không sẽ mất hàng thập kỷ để xây dựng.
“Đầu tư vào con người là yếu tố nền tảng. Đó là động lực thúc đẩy khoa học và công nghệ, đồng thời mang lại cho doanh nghiệp niềm tin rằng họ sẽ có được nguồn nhân tài phù hợp ở mọi cấp độ - từ các kỹ thuật viên và kỹ sư có kỹ năng cao đến các nhà khoa học và nhà lãnh đạo có tầm nhìn”, bà Mariam J. Sherman phân tích.
Hệ sinh thái đổi mới sáng tạo
Trụ cột thứ hai là xây dựng một hệ sinh thái đổi mới sáng tạo vững mạnh – một hệ sinh thái kết nối cơ sở GDĐH – viện nghiên cứu, Chính phủ, cùng các doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp FDI.
“Đó là một hệ sinh thái nơi nghiên cứu có thể phát triển mạnh mẽ, nơi các ý tưởng được đưa từ phòng thí nghiệm ra thị trường, và nơi các công ty khởi nghiệp có thể phát triển thành những kỳ lân công nghệ Made-in-Vietnam”, bà Mariam J. Sherman chỉ rõ.
Việt Nam đã đặt những nền móng quan trọng. Năm 2025, Việt Nam xếp hạng 44 trên 139 nền kinh tế trong Chỉ số Đổi mới sáng tạo toàn cầu – nằm trong nhóm các quốc gia có tốc độ tăng hạng nhanh nhất so với mức thu nhập, và TP.HCM đã là một trong những trung tâm đổi mới sáng tạo năng động nhất Đông Nam Á.
Tuy nhiên, các công việc có giá trị cao hơn, như thiết kế sản phẩm, chế tạo, và thương mại hóa kết quả nghiên cứu, vẫn còn ở giai đoạn sơ khai.
Theo dữ liệu từ đại diện Ngân hàng Thế giới, từ năm 2010 đến 2020, Việt Nam đã nộp chưa đến 100 bằng sáng chế tại năm cơ quan sở hữu trí tuệ quốc tế hàng đầu, và gần như không có bằng nào trong lĩnh vực bán dẫn. Đây chính là dư địa để tăng trưởng.
Tăng cường đầu tư công và tư vào nghiên cứu và đổi mới sáng tạo là cực kỳ quan trọng, đặc biệt là vào hạ tầng nghiên cứu và phát triển (R&D). Những đột phá trong công nghệ cao đòi hỏi các phòng thí nghiệm, dây chuyền tạo mẫu và sản xuất thử nghiệm (tiền thương mại), cùng các trung tâm đào tạo tiên tiến.
Thắt chặt mối liên kết giữa doanh nghiệp Việt Nam với FDI sẽ giúp các công ty nội địa nắm bắt nhiều giá trị hơn từ chuỗi cung ứng toàn cầu. Ảnh: Hoàng Anh
Ngân hàng Thế giới trong báo cáo mới nhất đã kêu gọi phát triển các trung tâm thiết kế bán dẫn quốc gia. Đây là những cơ sở vật chất đẳng cấp thế giới, nơi các cơ sở GDĐH, nhà nghiên cứu và công ty khởi nghiệp có thể cùng chia sẻ quyền truy cập vào các nguồn lực quan trọng.
Những trung tâm này giúp đẩy nhanh quá trình đổi mới sáng tạo và mang lại cho sinh viên và nhà khoa học kinh nghiệm thực tiễn để biến thiết kế thành hiện thực.
Không chỉ vậy, để khai phá toàn bộ tiềm năng của hệ sinh thái đổi mới sáng tạo Việt Nam, cần phải củng cố mối quan hệ hợp tác "ba nhà", giữa cơ sở GDĐH-viện nghiên cứu, doanh nghiệp và chính phủ.
Thắt chặt mối liên kết
Trụ cột thứ ba là thắt chặt hơn nữa mối liên kết giữa các công ty trong nước của Việt Nam, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) và các doanh nghiệp lớn có vốn đầu tư nước ngoài (FDI).
Mục tiêu rất rõ ràng là giúp các công ty Việt Nam nắm bắt nhiều giá trị hơn từ chuỗi cung ứng toàn cầu, vươn lên từ vai trò nhà cung cấp đơn thuần sang đối tác đồng sáng tạo đáng tin cậy và đối tác lâu dài của các tập đoàn đa quốc gia.
“Để thực hiện điều này, tôi muốn chia sẻ ý tưởng về một mô hình đối tác hợp tác nơi các doanh nghiệp FDI, công ty trong nước và chính phủ cùng đầu tư để nâng cao năng lực cho các doanh nghiệp nội địa. Cách tiếp cận này dựa trên những thành công đã được kiểm chứng trên khắp thế giới”, bà cho hay.
Mô hình này có thể tập trung vào phát triển nhà cung cấp, nơi một doanh nghiệp FDI cố vấn cho các DNNVV trong nước để đáp ứng các tiêu chuẩn toàn cầu về chất lượng, giao hàng và chứng nhận, với nguồn vốn từ chính phủ gắn liền với việc đạt được kết quả.
Bên cạnh đó, sáng kiến này cũng có thể hỗ trợ các dự án chung giữa FDI và doanh nghiệp trong nước để thử nghiệm các sản phẩm mẫu hoặc nội địa hóa các bộ phận quan trọng, tạo ra những điểm gia nhập trực tiếp vào chu trình sản xuất của một doanh nghiệp FDI.
Chất keo gắn kết
Yếu tố gắn kết các trụ cột lại với nhau là tập trung vào một vài cụm đổi mới sáng tạo xuất sắc được lựa chọn kỹ lưỡng.
Bài học kinh nghiệm từ các nước thành công như Trung Quốc, Singapore cho thấy điểm chung là sự tập trung cao độ của các đại học đầu tàu, các công viên khoa học chung giữa đại học và doanh nghiệp, các viện R&D, và sự hiện diện mạnh mẽ của các công ty công nghệ cao – các DNNVV sáng tạo, các công ty khởi nghiệp đầy tham vọng, và các nhà đầu tư nước ngoài lớn.
“Những cụm như vậy là những thỏi nam châm đầy sức hút đối với nhân tài và ý tưởng. Chúng truyền cảm hứng cho thế hệ trẻ Việt Nam theo đuổi sự nghiệp trong lĩnh vực khoa học và công nghệ, và chúng thu hút thêm nhiều người Việt trong cộng đồng ở nước ngoài mang kỹ năng và mạng lưới quan hệ của họ trở về quê hương”, bà Mariam J. Sherman nhận định.
“Câu chuyện phát triển của Việt Nam luôn là một câu chuyện về tinh thần kiên cường, khát vọng và thành công. Chương tiếp theo, tương lai công nghệ cao mà Việt Nam đang xây dựng, đang ở trong tầm tay. Tương lai đó sẽ trở thành hiện thực khi chúng ta biến tầm nhìn thành hành động, bắt đầu ngay từ hôm nay”, bà nhấn mạnh.
Phương Anh