Tại hội thảo “Phát triển ngành sữa Việt Nam giai đoạn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045” do Viện Nghiên cứu Chiến lược, Chính sách Công Thương (Bộ Công Thương) vừa tổ chức tại TP.HCM, các doanh nghiệp và hiệp hội đã phản ánh nhiều bất cập.
Bị 'trói chân' trong quy chuẩn
Ông Trần Quang Trung, Chủ tịch Hiệp hội Sữa Việt Nam, cho biết nhiều Quy chuẩn, Tiêu chuẩn Việt Nam (TCVN) dành cho sản phẩm sữa đã ban hành gần 15 năm, không còn phù hợp với công nghệ và thực tiễn sản xuất, gây khó khăn cho doanh nghiệp. Do đó, ông kiến nghị cơ quan chức năng sớm nghiên cứu sửa đổi, cập nhật các TCVN này theo hướng hài hòa với tiêu chuẩn quốc tế.
Dẫn chứng bất cập này, bà Hoàng Thị Tâm, đại diện một công ty sữa, chỉ ra một khoảng trống pháp lý là trong khi sữa công thức cho trẻ dưới 36 tháng tuổi có TCVN, thì sản phẩm sữa bột cho bà bầu, người già hay trẻ trên 36 tháng tuổi lại hoàn toàn không có.
“Tôi đã tìm kiếm nhưng không thấy văn bản nào quy định sản phẩm sữa bột phải có thành phần sữa bao nhiêu phần trăm mới được gọi là sữa. Vì không có quy chuẩn, các doanh nghiệp thiếu chú trọng chất lượng có thể pha trộn các thành phần rẻ tiền khác để hạ giá thành, khiến sản phẩm không đảm bảo dinh dưỡng, an toàn cho những đối tượng cần quan tâm đặc biệt về sức khỏe”- bà Tâm nói.
Trong khi đó, ông Nguyễn Bùi Hà, đại diện Công ty Cổ phần Thực phẩm dinh dưỡng GAFO, cho biết doanh nghiệp gặp vướng mắc khi công bố sản phẩm sữa từ thảo mộc và các loại hạt, do chưa có quy định rõ ràng tỉ lệ phần trăm hạt để được công nhận là sữa hạt.
“Nếu không có hướng dẫn chi tiết, thị trường sẽ hỗn loạn vì mỗi đơn vị công bố một kiểu”- ông Hà lo ngại.
Nghịch lý còn nằm ở việc phân định chất chính và chất phụ trong sản phẩm. Ông Phạm Minh Sơn-chủ tịch HĐQT Công Ty CP Đầu Tư MDGROUP phân tích rằng nhiều dưỡng chất như kẽm, canxi… trong QCVN không được phân loại rõ ràng. Điều này đẩy doanh nghiệp vào thế khó, vì theo Nghị định 98, nếu chất chính dưới 70% thì sản phẩm bị xác định là hàng giả. Hơn nữa, ngay cả các trung tâm kiểm nghiệm cũng chưa có quy chuẩn chung về phương pháp thử và sai số, dẫn đến kết quả kiểm nghiệm thiếu nhất quán.
Ghi nhận các bất cập, đại diện Bộ Công Thương cho biết đang hoàn thiện hành lang pháp lý và sẽ tổ chức hội thảo chuyên đề vào ngày 15-8 tới để làm rõ các khái niệm, phân loại sản phẩm một cách công khai, minh bạch.
Thứ trưởng Bộ Công Thương, Trương Thanh Hoài, chủ trì hội thảo. Ảnh: TÚ UYÊN
Đàn bò sữa TP.HCM từng chiếm 60% cả nước nhưng...
Theo ông Trung, doanh thu ngành sữa hàng năm đạt 5 tỉ USD, xuất khẩu 300 triệu USD và nguồn nguyên liệu trong nước đáp ứng 40%-45% nhu cầu.
Tuy nhiên, ông Nguyễn Xuân Dương, Chủ tịch Hiệp hội Chăn nuôi Việt Nam, nhìn nhận việc quản lý sữa nhập khẩu còn nhiều bất cập, gây bất lợi cho sản xuất trong nước.
Ông dẫn chứng giai đoạn 2010-2015, nhờ có quy chuẩn phân biệt rõ sữa tươi và sữa nước, ngành chăn nuôi bò sữa đã tăng trưởng vượt bậc 14-15%/năm, có năm tăng đến 22%. Tuy nhiên, việc buông lỏng kiểm soát sau đó đã khiến sữa nguyên liệu nhập khẩu ồ ạt tràn vào, làm giảm động lực của người chăn nuôi.
“Nhiều doanh nghiệp nhập khẩu sữa nguyên liệu về pha chế, dẫn đến các vấn đề như sữa giả, sữa kém chất lượng. Do đó, doanh nghiệp dùng sữa tươi nguyên liệu trong nước không thể cạnh tranh về giá, phải giảm thu mua khiến nông dân đành bán bò”- ông Dương phân tích.
Ông dẫn chứng, TP.HCM từng có 120.000 con bò sữa, chiếm 60% đàn bò cả nước, nay đã sụt giảm nghiêm trọng.
Từ kinh nghiệm của Indonesia hay Philippines, ông Dương đề xuất một giải pháp quyết liệt: đưa điều kiện ràng buộc vào chiến lược phát triển ngành sữa. Theo đó, doanh nghiệp kinh doanh sản phẩm sữa phải có vùng nguyên liệu hoặc cam kết sử dụng một tỉ lệ tối thiểu sữa nguyên liệu trong nước, ví dụ 20%.
Với điều kiện này, người tiêu dùng sẽ nhận diện giá trị sữa tươi và ưu tiên lựa chọn, tạo động lực thị trường cho các công ty dùng nguyên liệu trong nước. Song song đó, doanh nghiệp sẽ phải xây dựng vùng nguyên liệu hoặc quay lại "chăm sóc" người chăn nuôi. Nhà nước có thể dùng chính sách thuế, tín dụng… để khuyến khích doanh nghiệp tự nguyện thu mua sữa nội địa.
“Kinh doanh sữa tươi ít lãi nhất nên không nhiều doanh nghiệp mặn mà. Chỉ khi nào Nhà nước coi đây là chương trình mang tầm vóc quốc gia, vì giống nòi và sức khỏe người Việt, thì ngành sữa mới có thể phát triển bền vững”- ông Dương kết luận.
Theo Hiệp hội Sữa Việt Nam, Chiến lược phát triển chăn nuôi giai đoạn 2021-2030 đặt mục tiêu đến năm 2030, sản lượng sữa tươi đạt 2,6 triệu tấn và tiêu dùng bình quân đầu người đạt 26 kg/năm.
Tuy nhiên, mục tiêu tự chủ 53%-56% nguồn nguyên liệu sữa bò nội địa đang đặt ra thách thức lớn. Thực tế, Việt Nam vẫn nhập khẩu gần 1 tỉ USD nguyên liệu sữa mỗi năm, chủ yếu là các sản phẩm không thể sản xuất trong nước như đạm whey, sữa bột gầy... Đây là nguồn nguyên liệu không thể thiếu để sản xuất các sản phẩm sữa công thức giá trị cao và phục vụ xuất khẩu.
Do đó, định hướng “giảm dần sự phụ thuộc vào nhập khẩu sữa và nguyên liệu sữa” bị cho là chưa hợp lý và thiếu khả thi trong bối cảnh hiện tại.
Thứ trưởng Trương Thanh Hoài khẳng định Bộ Công Thương sẽ tiếp thu các kiến nghị để nghiên cứu, tham mưu Chính phủ hoàn thiện Chiến lược phát triển ngành sữa Việt Nam trong giai đoạn mới.
Theo Thứ trưởng, để đạt mục tiêu đến năm 2045, cần triển khai chiến lược đồng bộ, từ phát triển vùng nguyên liệu, hiện đại hóa công nghệ chế biến, logistics đến hệ thống phân phối. Cùng với đó, cần cấp thiết hoàn thiện cơ chế, chính sách để thu hút đầu tư, khuyến khích đổi mới, thúc đẩy liên kết chuỗi giá trị và tận dụng hiệu quả các hiệp định thương mại tự do, cũng như xu hướng tiêu dùng xanh.
TÚ UYÊN