TAND Tối cao vừa có công văn hỏa tốc gửi Chánh án TAND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
Theo nội dung công văn này thì thực hiện Kết luận số 126-KL/TW của Bộ Chính trị, Ban Bí thư về một số nội dung, nhiệm vụ tiếp tục sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị năm 2025 và Nghị quyết số 01-NQ/ĐU của Hội nghị Ban Thường vụ Đảng ủy TAND Tối cao về việc tiếp tục sắp xếp, tinh gọn tổ chức, bộ máy TAND, TAND Tối cao dự kiến tổ chức lại TAND cấp sơ thẩm trên cơ sở sắp xếp lại các TAND cấp huyện hiện nay căn cứ các tiêu chí sau:
Một phiên xét xử tại TAND quận 4, TP.HCM. Ảnh: TRẦN LINH
Thứ nhất, tiêu chí về số lượng vụ việc phải giải quyết:
Đối với khu vực đô thị đặc biệt (TP.Hà Nội và TP.HCM): Số lượng vụ việc phải giải quyết, xét xử của mỗi TAND sơ thẩm nằm trong khu vực nội thành từ 3.000 vụ/năm trở lên. Số lượng vụ việc phải giải quyết, xét xử của mỗi TAND sơ thẩm nằm trong khu vực ngoại thành từ 1.000 vụ/năm trở lên.
Góp ý trước ngày 2-3-2025
Để xây dựng đề án báo cáo Bộ Chính trị, TAND Tối cao đề nghị các TAND tỉnh tham gia nghiên cứu và đóng góp ý kiến, trong trường hợp có ý kiến khác, đề nghị phân tích, làm rõ và đề xuất cụ thể.
Văn bản góp ý được gửi về TAND Tối cao (thông qua Vụ Pháp chế và quản lý khoa học) trước ngày 2-3-2025 để tổng hợp, báo cáo Ban Thường vụ Đảng ủy TAND Tối cao.
Đối với khu vực nông thôn đồng bằng: Số lượng vụ việc phải giải quyết, xét xử của mỗi TAND sơ thẩm từ 800 vụ/năm trở lên.
Đối với khu vực miền núi: Số lượng vụ việc phải giải quyết, xét xử của mỗi TAND sơ thẩm từ 200 vụ/năm.
Thứ hai, tiêu chí về địa bàn thuận tiện, liền kề:
Các TAND được sáp nhập phải có vị trí địa lý liền kề, giao thông thuận tiện.
Mỗi TAND cấp huyện thuộc diện sắp xếp sẽ sáp nhập với ít nhất 1 TAND cấp huyện liền kề thuộc diện sắp xếp hoặc sáp nhập với TAND cấp huyện liền kề không thuộc diện sắp xếp.
Thứ ba, tiêu chí về đặc điểm kinh tế, vị trí địa lý, mật độ dân cư, hạ tầng cơ sở giao thông, văn hóa theo từng vùng miền:
Đối với khu vực miền núi: Do khu vực các huyện miền núi thường có diện tích rộng nhưng mật độ dân cư thấp, số lượng vụ việc không nhiều nên nếu chỉ áp dụng tiêu chí về khối lượng công việc phải giải quyết thì địa bàn hoạt động của các TAND sơ thẩm sẽ quá rộng, gây khó khăn cho người dân khi có công việc đến tòa án.
Vì vậy, cần bổ sung tiêu chí sau: Khoảng cách từ nơi đặt trụ sở TAND sơ thẩm khu vực đến nơi xa nhất trong địa hạt pháp lý của tòa án đó không quá 50 km.
Trường hợp không thể thỏa mãn đồng thời cả hai tiêu chí về số lượng án và khoảng cách từ nơi đặt trụ sở TAND sơ thẩm khu vực đến nơi xa nhất trong địa hạt pháp lý thì ưu tiên áp dụng tiêu chí về khoảng cách.
Đối với khu vực hải đảo: Không tổ chức TAND sơ thẩm khu vực tại mỗi huyện đảo mà sẽ bố trí thẩm phán, cán bộ tòa án tại TAND sơ thẩm khu vực liền kề, có năng lực đủ mạnh đến để tiếp nhân dân, xử lý đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của người dân và xét xử lưu động các loại vụ án theo lịch định kỳ hàng tháng.
Ngoài ra, ưu tiên các vị trí có trụ sở vừa được đầu tư xây dựng mới trong giai đoạn vừa qua và một số công trình thuộc dự án đầu tư sửa chữa, cải tạo, nâng cấp và xây dựng trụ sở TAND các cấp (giai đoạn 1).
Dự kiến tổ chức của các TAND cấp sơ thẩm tại Bình Dương
Dự kiến số lượng giảm từ 9 tòa án xuống còn 5 tòa án. Cụ thể:
TAND TP Thủ Dầu Một thành TAND sơ thẩm khu vực Thủ Dầu Một. Trụ sở đặt tại TAND TP Thủ Dầu Một.
TAND TP Thuận An và TAND TP. Dĩ An thành TAND sơ thẩm khu vực Thuận An - Dĩ An. Trụ sở đặt tại TAND TP.Thuận An.
TAND thị xã Bến Cát và TAND huyện Dầu Tiếng thành TAND sơ thẩm khu vực Bến Cát - Dầu Tiếng. Trụ sở đặt tại TAND thị xã Bến Cát.
TAND thị xã Tân Uyên và TAND Bắc Tân Uyên thành TAND sơ thẩm khu vực Tân Uyên. Trụ sở đặt tại TAND thị xã Tân Uyên.
TAND huyện Bàu Bàng và TAND huyện Phú Giáo thành TAND sơ thẩm khu vực Bàu Bàng - Phú Giáo. Trụ sở đặt tại TAND huyện Bàu Bàng.
SONG MAI