Theo Nghị quyết 51/NQ-CP về ban hành chương trình hành động của Chính phủ thực hiện kết luận số 91-KL/TW ngày 12 tháng 8 năm 2024 của Bộ chính trị tiếp tục thực hiện nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04 tháng 11 năm 2013 của ban chấp hành trung ương đảng khóa XI “về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hội nhập quốc tế” có nội dung tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý, bảo đảm đủ điều kiện cơ sở vật chất và nguồn lực tài chính cho phát triển giáo dục và đào tạo.
Trong đó, Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan liên quan: Tập trung tháo gỡ những vướng mắc trong cơ chế tự chủ tài chính đối với các cơ sở giáo dục, đào tạo công lập.
Khi cơ chế, chính sách chưa theo kịp thực tiễn
Trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Văn Long – Hiệu trưởng Trường Đại học Ngoại ngữ, Đại học Đà Nẵng cho biết, trong giai đoạn hiện nay, nhà trường là đơn vị tự chủ tài chính thuộc nhóm 3 (tự chủ một phần chi thường xuyên) theo phân loại của Nghị định số 60/2021/NĐ-CP quy định cơ chế tự chủ tài chính của đơn vị sự nghiệp công lập.
Trong quá trình thực hiện tự chủ tài chính, nhà trường có nhiều cơ hội để phát triển, nhưng cũng phải đối mặt với không ít khó khăn và thách thức.
“Nguồn thu chủ yếu của Trường Đại học Ngoại ngữ, Đại học Đà Nẵng là học phí chính quy tuy nhiên mức thu học phí bị khống chế theo mức trần của Nghị định số 81/2021/NĐ-CP quy định về cơ chế thu, quản lý học phí đối với cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân và chính sách miễn, giảm học phí, hỗ trợ chi phí học tập; giá dịch vụ trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo; Nghị định số 97/2023/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 81/2021/NĐ-CP ngày 27 tháng 8 năm 2021 của Chính phủ quy định về cơ chế thu, quản lý học phí đối với cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân và chính sách miễn, giảm học phí, hỗ trợ chi phí học tập; giá dịch vụ trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo.
Do đó, nhà trường khó linh hoạt trong việc xây dựng nguồn thu phù hợp với thực tiễn. Trong ba năm học liên tiếp 2020–2021; 2021–2022 và 2022–2023, do tác động kéo dài của đại dịch Covid-19 cùng với việc Chính phủ ban hành các nghị quyết nhằm giữ ổn định mức học phí, không điều chỉnh tăng theo lộ trình quy định tại Nghị định số 81/2021/NĐ-CP, quá trình nâng cao mức độ tự chủ tài chính của nhà trường đã bị chậm lại đáng kể.
Bên cạnh đó, nguồn ngân sách nhà nước cấp cho nhà trường chỉ đủ bù đắp một phần chi thường xuyên, không đáp ứng được nhu cầu phát triển toàn diện. Trong khi các khoản thu từ dịch vụ lại chiếm tỉ trọng thấp trong cơ cấu nguồn thu do chịu ảnh hưởng từ nhiều yếu tố khách quan”, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Văn Long thông tin.
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Văn Long - Hiệu trưởng Trường Đại học Ngoại ngữ, Đại học Đà Nẵng. Ảnh: NTCC
Thầy Long cho biết thêm, việc lập dự toán thu – chi của nhà trường được thực hiện theo đúng quy định của Luật ngân sách nhà nước và những văn bản hướng dẫn của Bộ Tài chính, Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Sau khi hoàn tất, dự toán sẽ được trình lên đơn vị chủ quản để tổng hợp và báo cáo Bộ Giáo dục và Đào tạo. Khi có quyết định phân bổ ngân sách từ Bộ Giáo dục và Đào tạo, nhà trường sẽ căn cứ vào đó để triển khai các hoạt động chi tiêu và thực hiện quyết toán theo đúng quy định.
Nhưng qua thực tế triển khai vẫn còn gặp một số vướng mắc như quyết định phân bổ ngân sách thường được ban hành vào đầu năm nhưng việc cập nhật kinh phí trên hệ thống Tabmis của Kho bạc nhà nước đôi khi bị chậm trễ, gây ảnh hưởng đến tiến độ triển khai kế hoạch chung của nhà trường. Cùng với đó là nguồn ngân sách nhà nước cấp cho nhà trường qua từng năm cũng có xu hướng bị cắt giảm dần.
Cũng theo Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Văn Long, mặc dù được trao quyền tự chủ tài chính, nhưng việc xây dựng và triển khai kế hoạch tài chính trung hạn hoặc dài hạn (thường là 3–5 năm) vẫn gặp nhiều rào cản về cả cơ chế pháp lý lẫn năng lực tổ chức nội bộ.
Hệ thống pháp lý liên quan đến tự chủ tài chính cũng chưa thật sự đồng bộ và còn mang tính ngắn hạn với ngân sách được cấp theo năm. Ngoài ra, còn tồn tại nhiều rào cản trong việc khai thác, sử dụng tài sản công để huy động những nguồn lực xã hội khác phục vụ phát triển nhà trường.
Không chỉ gặp khó khăn từ cơ chế bên ngoài, nhà trường cũng đang đối mặt với những hạn chế nội tại, đặc biệt là về năng lực phân tích và quản trị tài chính. Điều này dẫn đến việc xây dựng kế hoạch tài chính chưa sát với thực tế, gây khó khăn trong quá trình triển khai và điều hành các hoạt động một cách hiệu quả.
Cùng bàn về vấn đề này, Tiến sĩ Nguyễn Minh Anh Tuấn - Hiệu trưởng Trường Đại học Tân Trào chia sẻ, mức độ tự chủ tài chính của nhà trường hiện đang ở mức 3, tự chủ một phần chi thường xuyên. Trong quá trình triển khai tự chủ tài chính, nhà trường cũng đang gặp một số khó khăn, vướng mắc nhất định. Cụ thể:
Thứ nhất, quy mô tuyển sinh hàng năm của nhà trường dù đã tăng đến mức tối đa so với khả năng đào tạo, nhưng phần lớn sinh viên thuộc nhóm ngành sư phạm là đối tượng được miễn, giảm học phí nên nguồn thu từ học phí còn thấp. Hơn nữa, mức thu hiện nay đã được nhà trường duy trì nhiều năm mà không tăng, trong khi các dịch vụ đào tạo chưa thật sự ổn định, quy mô còn nhỏ, khiến nguồn thu chưa đủ để bù đắp vào chi phí vận hành.
Thứ hai, do hạn chế về cơ sở vật chất và cơ chế khuyến khích đầu tư ngoài ngân sách nên việc phát triển hoạt động nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ để tạo thêm nguồn thu còn nhiều thách thức.
Thứ ba, một số quy định về cơ chế tài chính, quản lý đầu tư, quy trình đặt hàng đào tạo và xã hội hóa giáo dục hiện nay vẫn còn bất cập, làm giảm tính linh hoạt và hiệu quả trong triển khai tự chủ.
Thứ tư, bên cạnh đảm bảo nguồn lực tài chính để duy trì hoạt động, nhà trường còn phải duy trì, nâng cao chất lượng đào tạo sinh viên, hỗ trợ đội ngũ cán bộ, giảng viên đi học nâng cao trình độ. Cũng như thực hiện một số chính sách hỗ trợ thu nhập cho giảng viên, viên chức, người lao động và tu bổ cơ sở vật chất, đây là một bài toán lớn đối với nhà trường.
Về phía Trường Đại học Phú Yên, theo Tiến sĩ Trần Lăng - hiệu trưởng nhà trường cho biết, các quy định hiện hành về phân bổ ngân sách, cơ chế thu học phí và quản lý tài sản công vẫn còn bất cập, chưa thật sự tạo điều kiện thuận lợi cho nhà trường trong quá trình thực hiện tự chủ tài chính.
“Việc phân bổ ngân sách hiện vẫn mang tính bình quân, chưa thực sự gắn với kết quả đầu ra hay tính đặc thù của từng loại hình đào tạo. Điều này dẫn đến sự thiếu linh hoạt, đặc biệt là khi nhà trường muốn điều chỉnh kế hoạch tài chính để thích ứng với nhu cầu phát triển hoặc thực hiện các nhiệm vụ đột xuất.
Về quản lý và sử dụng tài sản công, những tài sản do nhà nước giao vẫn bị ràng buộc chặt chẽ trong quy trình quản lý và khai thác. Nhà trường muốn tận dụng hiệu quả các nguồn lực này, ví dụ như cho thuê, liên kết sử dụng phục vụ nghiên cứu hoặc dịch vụ đào tạo thì phải trải qua rất nhiều thủ tục, hạn chế khả năng sử dụng hiệu quả tài sản và tạo nguồn thu bổ sung.
Mặt khác, dự báo về nguồn thu chưa thực sự ổn định; cơ chế tín dụng ưu đãi hoặc các quỹ hỗ trợ phát triển đại học giúp các trường công lập đầu tư hạ tầng, trang thiết bị hay nghiên cứu khoa học một cách chủ động và lâu dài; sự thiếu đồng bộ trong hành lang pháp lý, gây lúng túng khi triển khai là những nguyên nhân khiến nhà trường gặp khó khăn khi xây dựng kế hoạch tài chính trung hạn và dài hạn”, Tiến sĩ Trần Lăng cho hay.
Tiến sĩ Trần Lăng - Hiệu trưởng Trường Đại học Phú Yên. Ảnh: Mộc Trà
Trước thực trạng nguồn thu hạn chế từ nhóm ngành sư phạm, nhà trường đã chủ động định hướng lại chiến lược phát triển đào tạo. Cụ thể, thay vì mở rộng các ngành đào tạo giáo viên, Trường Đại học Phú Yên có kế hoạch chuyển hướng sang phát triển nhóm ngành có tiềm năng lớn như: du lịch, công nghệ thông tin, cơ sở dữ liệu, trí tuệ nhân tạo và lĩnh vực liên quan đến chuyển đổi số, đây những ngành nghề đang có nhu cầu cao từ xã hội và doanh nghiệp.
Tiến sĩ Trần Lăng nhấn mạnh: “Muốn tự chủ thì phải có tài chính vững, muốn có tài chính tốt thì phải đào tạo những ngành mà xã hội cần. Tuy nhiên, để thực hiện điều này, nhà trường cần có sự đầu tư ban đầu mạnh mẽ từ nhà nước cả về cơ sở vật chất và nguồn nhân lực”.
Thúc đẩy hợp tác công - tư trong giáo dục đại học để thực hiện tự chủ hiệu quả
Trong bối cảnh tự chủ, việc thu hút nguồn lực đầu tư từ bên ngoài là xu hướng sống còn đối với các trường đại học công lập, nhằm giảm phụ thuộc vào ngân sách nhà nước và nâng cao chất lượng đào tạo, nghiên cứu.
Trường Đại học Ngoại ngữ, Đại học Đà Nẵng cũng không nằm ngoài xu thế trên, theo Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Văn Long chia sẻ: “Nhà trường luôn nỗ lực tìm kiếm nguồn viện trợ, tài trợ từ nhiều tổ chức, đối tác trong và ngoài nước, bao gồm học bổng cho sinh viên, trang thiết bị, cơ sở vật chất và hợp tác đào tạo.
Trong thời gian tới, nhà trường sẽ đẩy mạnh kết nối với doanh nghiệp và một số đơn vị có nhu cầu đặt hàng nghiên cứu, chuyển giao các sản phẩm khoa học nhằm mở rộng nguồn thu và nâng cao hiệu quả tự chủ”.
Cũng trong tình hình chung, nhà trường gặp nhiều khó khăn khi xin phê duyệt và sử dụng nguồn vốn viện trợ nước ngoài. Thủ tục hành chính phức tạp, kéo dài không chỉ làm chậm tiến độ triển khai các dự án mà còn khiến trường đánh mất cơ hội tiếp cận nguồn lực quốc tế.
Theo thầy Long, để tháo gỡ nút thắt này, nhà nước cần đơn giản hóa thủ tục tiếp nhận tài trợ đối với những trường đại học thực hiện tự chủ. Đồng thời, cần cấp quyền sử dụng linh hoạt vốn viện trợ, không bắt buộc phải thực hiện cơ chế “ghi thu – ghi chi”, tương tự như cách quản lý tại các quỹ hỗ trợ hoặc các trường đại học ngoài công lập.
Ngoài ra, để tránh tình trạng “bên phê duyệt chậm, bên không chịu xác nhận”, những chính sách liên quan giữa các bộ, ban, ngành cần được đồng bộ và thực thi nhất quán.
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Văn Long chia sẻ thêm, năm 2026, nhà trường đề ra mục tiêu sẽ nâng mức độ tự chủ từ nhóm 3 (tự chủ 1 phần chi thường xuyên) lên nhóm 2 (tự chủ chi thường xuyên) trong giai đoạn đầu của chuyển sang tự chủ. Nhà trường mong muốn được duy trì nguồn ngân sách hỗ trợ chuyển tiếp cho trường mới tự chủ, cấp ngân sách đầu tư, nghiên cứu, hỗ trợ một phần lương… trong 3–5 năm đầu và có cơ chế rút dần khi trường đạt tự chủ ổn định.
Mặt khác, thầy Long kiến nghị, để các trường công lập thực hiện hiệu quả cơ chế tự chủ tài chính, Nhà nước cần ban hành cơ chế tài chính, đầu tư, nhân sự phù hợp theo từng mức độ tự chủ; cải tiến thủ tục phê duyệt viện trợ và hợp tác quốc tế; cho phép trường xây dựng cơ chế tuyển dụng, trả lương riêng; sửa đổi quy định về quản lý tài sản công và học phí.
Về phía Trường Đại học Tân Trào, Tiến sĩ Nguyễn Minh Anh Tuấn nhấn mạnh, việc thu hút nguồn lực đầu tư từ bên ngoài là yếu tố then chốt để đảm bảo sự phát triển bền vững, cũng như năng lực cạnh tranh của nhà trường.
Cụ thể, nhà trường tiếp tục nâng cao chất lượng đào tạo và tăng cơ hội việc làm của sinh viên sau tốt nghiệp để khẳng định giá trị và vị thế của nhà trường, từ đó thu hút người học và tạo uy tín xã hội.
Nhà trường cũng tăng cường hợp tác với doanh nghiệp, cơ sở sản xuất và chính quyền địa phương trong việc đặt hàng đào tạo, thực tập sinh viên, chuyển giao công nghệ và tổ chức đào tạo theo nhu cầu. Một số chương trình hợp tác cụ thể đã được triển khai như liên kết đào tạo nguồn nhân lực ngành giáo dục, nông lâm nghiệp và du lịch tại địa phương.
Cùng với đó là đẩy mạnh hoạt động đào tạo ngắn hạn, bồi dưỡng nghiệp vụ, tư vấn và chuyển giao kỹ thuật cho các đơn vị, cá nhân ngoài trường. Đồng thời, khuyến khích giảng viên tham gia nhiều đề tài, đề án hợp tác nghiên cứu với bên ngoài để gắn kết đào tạo với thực tiễn.
Nhà trường cũng thường xuyên rà soát, đánh giá tình hình quản lý và sử dụng hiệu quả nguồn tài chính; kiểm kê và quản lý việc sử dụng tài sản trong trường để đảm bảo hiệu quả sử dụng và bảo quản tài sản. Định kỳ rà soát sửa đổi, bổ sung quy chế chi tiêu nội bộ để đảm bảo sự phù hợp.
Tiến sĩ Nguyễn Minh Anh Tuấn - Hiệu trưởng Trường Đại học Tân Trào. Ảnh: website nhà trường
Bên cạnh đó, Tiến sĩ Nguyễn Minh Anh Tuấn chỉ ra một số vướng mắc còn tồn tại trong việc thu hút đầu tư từ bên ngoài vào nhà trường bao gồm:
Cơ chế pháp lý về liên kết, hợp tác đầu tư còn thiếu linh hoạt. Một số quy định liên quan đến sử dụng tài sản công, đặc biệt là đất đai, cơ sở vật chất của trường trong hợp tác công – tư (PPP) còn rườm rà, khiến quá trình triển khai bị chậm hoặc không hấp dẫn nhà đầu tư.
Thiếu hành lang rõ ràng về ưu đãi đầu tư trong giáo dục, nhất là giáo dục đại học công lập. Các doanh nghiệp đầu tư vào giáo dục hiện chưa được hưởng nhiều ưu đãi về thuế, đất đai hay tín dụng. Điều này khiến việc thu hút nguồn lực xã hội hóa vào giáo dục còn hạn chế.
Khả năng xây dựng và quản trị dự án còn cần hoàn thiện. Đội ngũ của nhà trường tuy nhiệt huyết nhưng kinh nghiệm trong việc xây dựng hồ sơ mời đầu tư, tổ chức đấu thầu, quản trị dự án liên kết quy mô lớn. Vì vậy, cần có thêm hỗ trợ chuyên môn từ cơ quan chức năng hoặc chuyên gia bên ngoài.
Do nhiều quy định chưa rõ ràng nên nhiều đối tác còn tâm lý e ngại rủi ro khi hợp tác đầu tư vào cơ sở giáo dục công lập, đặc biệt là những mô hình hợp tác dài hạn hoặc có tính ràng buộc tài chính.
Với những vướng mắc trên, thầy Tuấn mong muốn nhà nước sớm hoàn thiện cơ chế, chính sách về tự chủ đại học, đặc biệt là trong lĩnh vực hợp tác – đầu tư bao gồm miễn giảm thuế, hỗ trợ vay vốn hoặc ưu tiên tiếp cận đất đai, hạ tầng kỹ thuật.
"Cần xây dựng cơ chế đặc thù và hành lang pháp lý rõ ràng hơn cho các trường đại học công lập trong việc huy động và sử dụng nguồn lực xã hội hóa, nhất là trường ở xa khu vực đô thị lớn. Đồng thời, tăng cường hỗ trợ kỹ thuật và tư vấn tài chính để giúp nhà trường tự tin triển khai những dự án hợp tác quy mô, hiệu quả hơn", Tiến sĩ Nguyễn Minh Anh Tuấn kiến nghị.
Bảo Hân