Nghị quyết số 57-NQ/TW, ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia có nêu: “Đến năm 2030, Việt Nam lọt vào nhóm 3 nước dẫn đầu khu vực Đông Nam Á về nghiên cứu và phát triển trí tuệ nhân tạo, trung tâm phát triển một số ngành, lĩnh vực công nghiệp công nghệ số mà Việt Nam có lợi thế”.
Nhiều lãnh đạo trường đại học bày tỏ, đây là cơ hội để Việt Nam rút ngắn khoảng cách phát triển với các quốc gia phát triển, đi thẳng vào những công nghệ tiên tiến nhất như AI, blockchain, dữ liệu lớn (big data), điện toán đám mây, máy học (machine learning). Việc định hướng phát triển AI không chỉ đơn thuần là phát triển một ngành công nghệ mà còn là thay đổi cách vận hành toàn xã hội từ quản lý, sản xuất, dịch vụ đến giáo dục, y tế, nông nghiệp…
Chủ động xây dựng chiến lược phát triển nhằm đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao
Trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Ngô Như Khoa - Chủ tịch Hội đồng trường Trường Đại học Kỹ thuật Công nghiệp (Đại học Thái Nguyên) nhận định, trong bối cảnh toàn cầu đang bước vào kỷ nguyên số với những biến chuyển nhanh chóng về công nghệ, việc lựa chọn trí tuệ nhân tạo (AI), chuyển đổi số và công nghệ số làm các hướng đột phá là hoàn toàn phù hợp, đi vào đúng trọng tâm nhiệm vụ để phát triển đất nước.
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Ngô Như Khoa - Chủ tịch Hội đồng trường Trường Đại học Kỹ thuật Công nghiệp (Đại học Thái Nguyên). Ảnh: Ngân Chi
“Với vai trò là một trường đại học đào tạo chuyên về kỹ thuật, nhà trường không chỉ mang trên mình trách nhiệm đào tạo đội ngũ kỹ sư, chuyên gia công nghệ chất lượng cao mà còn có sứ mệnh tiên phong trong nghiên cứu, phát triển công nghệ và lan tỏa đổi mới sáng tạo. Đây là những trung tâm nghiên cứu ứng dụng quan trọng, đóng vai trò cầu nối giữa kiến thức học thuật và nhu cầu thực tiễn của doanh nghiệp nói riêng và của nền kinh tế nói chung.
Ngay từ khi Nghị quyết 57 được ban hành, nhận thức rõ tính cấp thiết và định hướng chiến lược của văn kiện này, Nhà trường đã nhanh chóng xây dựng kế hoạch hành động cụ thể. Trước hết là việc rà soát và cập nhật các định hướng nghiên cứu, ưu tiên các chủ đề liên quan đến trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn, tự động hóa, công nghệ điều khiển thông minh, Internet vạn vật (IoT)... Đồng thời, Nhà trường cũng đầu tư nguồn lực để xây dựng các trung tâm nghiên cứu chuyên sâu. Trong đó, các trung tâm này không chỉ phục vụ mục tiêu nghiên cứu khoa học đơn thuần, mà còn hướng tới việc tạo ra các sản phẩm có thể ứng dụng trong thực tế và thương mại hóa trong vòng 2-3 năm tới.
Điều chú ý, Nhà trường đã chủ động dành khoảng 1% tổng ngân sách đầu tư ban đầu cho việc phát triển các sản phẩm ứng dụng tại các cơ sở giáo dục trong tỉnh Thái Nguyên như hệ thống quản lý thông minh, thiết bị học tập ứng dụng AI, hỗ trợ dạy học STEM”, thầy Khoa thông tin.
Cùng bàn vấn đề này, Phó giáo sư, Tiến sĩ Bùi Văn Hồng - Viện trưởng Viện Sư phạm Kỹ thuật, Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh nhận định, Nghị quyết 57 là một trong những định hướng chiến lược trọng điểm, thể hiện khát vọng và tầm nhìn dài hạn của Việt Nam trong bối cảnh cách mạng công nghiệp lần thứ tư và xu hướng chuyển đổi số toàn cầu. Mục tiêu đến năm 2030, Việt Nam nằm trong nhóm 3 nước dẫn đầu khu vực Đông Nam Á về nghiên cứu và phát triển trí tuệ nhân tạo (AI), trở thành trung tâm phát triển một số ngành, lĩnh vực công nghiệp công nghệ số mà Việt Nam có lợi thế đặt ra thách thức lớn nhưng cũng mở ra cơ hội to lớn cho tất cả các ngành, đặc biệt là giáo dục đại học.
Phó giáo sư, Tiến sĩ Bùi Văn Hồng - Viện trưởng Viện Sư phạm Kỹ thuật, Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh. (Ảnh: Nhân vật từng cung cấp)
“Nhà trường xác định rõ vai trò then chốt trong việc hiện thực hóa các mục tiêu mà Nghị quyết 57 đề ra. Trong đó, trí tuệ nhân tạo và công nghệ số không chỉ là lĩnh vực nghiên cứu mới mẻ, mà còn là đòn bẩy thúc đẩy tăng trưởng kinh tế - xã hội bền vững. Chính vì vậy, Nhà trường luôn chủ động xây dựng chiến lược phát triển phù hợp, nhằm đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, nghiên cứu khoa học ứng dụng và chuyển giao công nghệ một cách hiệu quả.
Hiện nay, Nhà trường có đội ngũ giảng viên, nhà nghiên cứu giàu kinh nghiệm, nhiều người có trình độ tiến sĩ, tiến sĩ khoa học chuyên sâu về lĩnh vực AI, kỹ thuật máy tính, công nghệ thông tin và các ngành công nghiệp kỹ thuật số. Bên cạnh đó, cơ sở vật chất được đầu tư đồng bộ với các phòng thí nghiệm hiện đại, thiết bị phục vụ nghiên cứu ứng dụng công nghệ cao và môi trường học tập hiện đại. Ngoài ra, nhà trường đã thiết lập mối quan hệ hợp tác chiến lược với nhiều doanh nghiệp công nghệ trong nước và quốc tế, tạo nền tảng vững chắc cho việc kết nối nghiên cứu đào tạo với thị trường lao động.
Ngoài ra, nhà trường đang triển khai đào tạo nhiều ngành học mới, đặc biệt là công nghiệp bán dẫn - lĩnh vực trọng điểm mà Việt Nam được đánh giá có nhiều tiềm năng phát triển. Do đó, việc đào tạo giáo viên kỹ thuật công nghệ cũng được chú trọng để đáp ứng nhu cầu cấp thiết của các trường phổ thông và cơ sở giáo dục nghề nghiệp. Đây là một trong những mảng quan trọng để lan tỏa kiến thức và kỹ năng công nghệ số tới từng địa phương, giúp nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đặc biệt là trong bối cảnh nền kinh tế số ngày càng mở rộng”, thầy Hồng bày tỏ.
Cần phối hợp chặt chẽ giữa nhà trường, viện nghiên cứu, doanh nghiệp và tổ chức quốc tế
Thầy Khoa bày tỏ, mặc dù có định hướng đúng và đầu tư bài bản, nếu không có đội ngũ nhân lực chất lượng cao thì mọi kế hoạch vẫn chỉ là “vẽ đường trên giấy”. Đây cũng là thách thức chung không chỉ với nhà trường mà còn với toàn hệ thống. Do đó, thu hút nhân tài và giữ chân người giỏi là nhiệm vụ cấp thiết hàng đầu. Tuy nhiên, việc thu hút nhân tài không thể dừng ở các khẩu hiệu hay lời kêu gọi chung chung, thay vào đó cần có cơ chế gắn liền với nhiệm vụ cụ thể, môi trường làm việc thực sự sáng tạo và chính sách đãi ngộ xứng đáng.
“Tại nhà trường, chúng tôi đã thực hiện chính sách thu hút nhân lực dựa trên nguyên tắc ‘có nhiệm vụ, có cơ chế và có môi trường’. Khi thành lập các trung tâm mới, trường phân công rõ ràng người chịu trách nhiệm, giao nhiệm vụ cụ thể theo từng quý, từng năm. Các giảng viên có chuyên môn sâu đã từng hợp tác với doanh nghiệp, có kinh nghiệm triển khai sản phẩm thực tế được ưu tiên bố trí vào các vị trí nòng cốt. Đồng thời, các trung tâm cũng được quyền chủ động mời nhân sự bên ngoài từ các viện nghiên cứu, doanh nghiệp có chuyên môn để cùng tham gia. Khi có sự phân công trách nhiệm rõ ràng và đảm bảo nguồn lực, người giỏi sẽ cảm thấy được trân trọng và có động lực cống hiến.
Hiện nay, đơn cử Trung Quốc đã thành công trong việc đưa hàng nghìn nhà khoa học gốc Hoa đang làm việc tại Mỹ, châu Âu quay trở lại quê hương thông qua các chương trình với các ưu đãi hấp dẫn về thu nhập, cơ sở vật chất nghiên cứu hiện đại và đặc biệt là việc trao quyền tự chủ rất cao cho các nhóm nghiên cứu. Tuy nhiên, điều quan trọng hơn cả là họ đã đánh thức được lòng tự hào dân tộc, tinh thần phụng sự Tổ quốc của người trí thức.
Theo đó, Việt Nam hoàn toàn có thể học hỏi cách tiếp cận này. Chúng ta đã có nhiều chính sách thu hút chuyên gia người Việt ở nước ngoài, nhưng để thực sự hiệu quả thì cần đồng bộ hơn từ hạ tầng nghiên cứu, pháp lý, lộ trình phát triển nghề nghiệp cho đến việc đảm bảo quyền tự chủ trong nghiên cứu và tài chính. Một khi người giỏi cảm thấy họ được làm việc trong môi trường năng động, có thể cống hiến mà không bị trói buộc, họ sẽ chủ động quay trở về”, thầy Khoa nêu quan điểm.
Sinh viên Trường Đại học Kỹ thuật Công nghiệp (Đại học Thái Nguyên). Ảnh: NTCC
Chủ tịch Hội đồng trường Trường Đại học Kỹ thuật Công nghiệp (Đại học Thái Nguyên) cho biết, trong bối cảnh nguồn lực còn hạn chế, nhà trường cũng xác định rõ không thể trải đều mà phải chọn lĩnh vực mũi nhọn để ưu tiên đầu tư. Trong đó, AI và chuyển đổi số chính là hai mũi nhọn mà nhà trường đang tập trung phát triển mạnh mẽ. Đây không chỉ là thế mạnh truyền thống của trường mà còn là lĩnh vực phù hợp với chiến lược phát triển quốc gia theo tinh thần Nghị quyết 57.
Bên cạnh đó, Nhà trường cũng đẩy mạnh hợp tác với doanh nghiệp để đưa các công nghệ ra thị trường bởi một sản phẩm công nghệ chỉ thực sự thành công khi có người sử dụng và mang lại giá trị cho xã hội.
“Nghị quyết 57 là một kim chỉ nam quan trọng, định hướng cho toàn xã hội trong hành trình bứt phá bằng khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo. Với các trường đại học kỹ thuật, đây là thời điểm then chốt để tái cấu trúc chiến lược, tăng tốc đầu tư và khẳng định vai trò là trung tâm nghiên cứu, ứng dụng công nghệ cao. Nhà trường tin rằng, với cách tiếp cận thực chất, có trọng tâm trọng điểm và cơ chế thu hút nhân tài rõ ràng, các trường đại học Việt Nam hoàn toàn có thể trở thành động lực quan trọng giúp đất nước thực hiện thành công mục tiêu trở thành quốc gia có trình độ phát triển cao về khoa học công nghệ trong khu vực Đông Nam Á vào năm 2030 và vươn ra thế giới vào năm 2045”, thầy Khoa nhấn mạnh.
Đồng quan điểm trên, theo Viện trưởng Viện Sư phạm Kỹ thuật, Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh, để đạt được mục tiêu của Nghị quyết 57, không chỉ riêng Nhà trường mà toàn ngành giáo dục và khoa học công nghệ phải vượt qua nhiều thách thức.
Thứ nhất, Nhà trường cần phát triển mạnh mẽ hệ sinh thái nghiên cứu liên ngành, tạo điều kiện để các nhóm nghiên cứu hợp tác, phát huy thế mạnh chuyên môn, đẩy mạnh các đề tài, dự án nghiên cứu thực tiễn và ứng dụng công nghệ cao. Việc này đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ giữa nhà trường, các viện nghiên cứu, doanh nghiệp và các tổ chức quốc tế.
Thứ hai, chế độ đãi ngộ, chính sách thu hút nhân tài, phát triển đội ngũ giảng viên, nhà nghiên cứu cần được cải thiện để giữ chân và khuyến khích sự sáng tạo. Nhiều cán bộ trẻ có năng lực cao hiện còn bị hạn chế về cơ hội phát triển hoặc điều kiện nghiên cứu chưa phù hợp, dẫn đến tình trạng “chảy máu chất xám” hoặc họ chuyển sang làm việc ở các công ty công nghệ với mức thu nhập cao hơn.
Thứ ba, cơ chế tài chính và đầu tư cho nghiên cứu khoa học công nghệ phải minh bạch, hiệu quả và ưu tiên cho các lĩnh vực trọng điểm như AI, công nghiệp bán dẫn, robot và tự động hóa. Nguồn kinh phí đủ mạnh sẽ là động lực để các đề tài nghiên cứu phát triển, đồng thời tạo môi trường hỗ trợ sinh viên và giảng viên tham gia sáng tạo, khởi nghiệp.
“Theo tôi, giáo dục đại học chính là trung tâm đào tạo nhân lực chất lượng cao, cũng là nơi tạo ra tri thức mới, thúc đẩy đổi mới sáng tạo. Việc làm chủ công nghệ không chỉ là vấn đề của các tập đoàn lớn mà bắt nguồn từ nền tảng tri thức, kỹ năng và tinh thần sáng tạo được nuôi dưỡng trong các trường đại học. Đây là yếu tố then chốt giúp Việt Nam không chỉ tiếp nhận công nghệ mà còn phát triển các giải pháp công nghệ mới, phù hợp với điều kiện thực tiễn của đất nước.
Ngoài ra, giáo dục đại học cần đổi mới chương trình, phương pháp đào tạo, tập trung phát triển kỹ năng thực hành, nghiên cứu ứng dụng và hợp tác quốc tế. Sinh viên và giảng viên được khuyến khích tham gia các dự án nghiên cứu gắn với doanh nghiệp, góp phần tạo ra sản phẩm có giá trị, tăng khả năng cạnh tranh của nền kinh tế số.
Do đó, Nghị quyết 57 không chỉ là kim chỉ nam cho sự phát triển của lĩnh vực AI và công nghiệp công nghệ số mà còn là bài toán tổng thể cho toàn ngành giáo dục đại học và khoa học công nghệ Việt Nam. Nhà trường xác định rõ trách nhiệm và sứ mệnh trong việc đào tạo, nghiên cứu và phát triển công nghệ, đồng thời cam kết nỗ lực không ngừng để góp phần đưa Việt Nam trở thành quốc gia dẫn đầu trong khu vực về trí tuệ nhân tạo và các ngành công nghiệp công nghệ cao”, thầy Hồng bày tỏ.
Yên Đan