Các nghị quyết chuyên đề của Tỉnh ủy, HĐND tỉnh là "cú hích" quan trọng, tạo động lực cho các vùng chè trọng điểm trên địa bàn tỉnh phát triển bền vững, hiệu quả. Ảnh: Vũ Kim Khoa
Từ một nghị quyết “đúng và trúng”
Thái Nguyên từ lâu được xem là “thủ phủ chè” của cả nước. Sau khi hợp nhất đơn vị hành chính (từ ngày 1/7/2025), tỉnh có gần 24.000ha chè, trong đó gần 23.000ha đang cho sản phẩm, với năng suất bình quân đạt gần 130 tạ/ha. Toàn tỉnh hiện có 207 sản phẩm trà chế biến được chứng nhận OCOP từ 3-5 sao. Giá trị sản phẩm chè hằng năm ước đạt trên 13.000 tỷ đồng.
Tuy nhiên, so với tiềm năng, lợi thế sẵn có, ngành chè Thái Nguyên vẫn chưa phát huy hết giá trị. Đáng chú ý là quy mô sản xuất còn nhỏ; sản phẩm chưa đa dạng, chưa có nhiều sản phẩm chế biến sâu; hoạt động kết nối, quảng bá còn hạn chế, tỉnh vẫn chưa thu hút được nhiều doanh nghiệp có tiềm lực tham gia đầu tư vào sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm theo chuỗi giá trị…
Phát triển cây chè theo hướng bền vững, nâng cao giá trị và thương hiệu trở thành yêu cầu cấp thiết đặt ra đối với Thái Nguyên. Ngày 3/2/2025, Tỉnh ủy đã ban hành Nghị quyết số 11-NQ/TU về phát triển ngành chè giai đoạn 2025-2030. Nghị quyết này được đánh giá là “đúng và trúng”, bởi xuất phát từ yêu cầu thực tiễn, đồng thời phù hợp với nguyện vọng của người dân, doanh nghiệp và hợp tác xã (HTX).
Cây chè vừa mang lại cuộc sống no đủ cho người dân Thái Nguyên, vừa tạo nên những cảnh sắc thiên nhiên tươi đẹp, hấp dẫn du khách.
Nghị quyết tập trung vào nhiều nhóm giải pháp then chốt, như: Tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo trong phát triển sản xuất, chế biến và kinh doanh nhằm nâng cao giá trị ngành chè; rà soát, hoàn thiện quy hoạch vùng sản xuất theo hướng tập trung, chuyên canh và ứng dụng công nghệ cao; đẩy mạnh nghiên cứu, chuyển giao tiến bộ khoa học - công nghệ trong toàn bộ chuỗi giá trị từ giống, trồng, thu hoạch đến chế biến.
Cùng với đó, củng cố, phát triển thương hiệu chè Thái Nguyên gắn với hoạt động quảng bá, xúc tiến thương mại và tiêu thụ sản phẩm. Đồng thời, tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách, huy động các nguồn lực để tạo động lực phát triển bền vững cho ngành chè.
Để cụ thể hóa nội dung nghị quyết, các sở, ngành, đơn vị và địa phương trong tỉnh đã tích cực phối hợp triển khai thực hiện. Hiện nay, toàn tỉnh đang tập trung vào việc hướng dẫn, quản lý, giám sát mã số vùng trồng chè; rà soát, tổng hợp diện tích chè đăng ký chứng nhận VietGAP; triển khai nhiều đề tài, dự án khoa học - công nghệ gắn trực tiếp với cây chè.
Điển hình là Dự án nghiên cứu, ứng dụng công nghệ chuyển đổi số trong bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và quảng bá, xúc tiến thương mại cho sản phẩm chè Thái Nguyên. Dự án triển khai đồng bộ các công cụ về sở hữu trí tuệ, tiêu chuẩn, đo lường và chất lượng, kết hợp với chuyển đổi số nhằm phát huy giá trị chỉ dẫn địa lý “Tân Cương” gắn với Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia “Tri thức trồng và chế biến chè Tân Cương”.
Cùng với đó, tỉnh còn triển khai ứng dụng khoa học - công nghệ thử nghiệm chế phẩm sinh học để khử rêu, phòng trừ bệnh trong sản xuất chè theo tiêu chuẩn hữu cơ, gắn với liên kết chuỗi giá trị trên địa bàn.
Khách tham quan thưởng trà Thái Nguyên tại Triển lãm thành tựu đất nước với chủ đề “80 năm Hành trình Độc lập - Tự do - Hạnh phúc”, được tổ chức nhân dịp kỷ niệm 80 năm Quốc khánh 2-9.
Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh đã phối hợp với các địa phương tổ chức tập huấn, tuyên truyền cho hơn 11.600 lượt người tham gia dự án tìm hiểu về các quy định an toàn thực phẩm, kỹ thuật sản xuất, chế biến, liên kết tiêu thụ sản phẩm trà và định hướng phát triển ngành chè giai đoạn 2025-2030…
Thêm động lực để chè vươn xa
Nếu như Nghị quyết số 11-NQ/TU của Tỉnh ủy xác định tầm nhìn và định hướng chiến lược cho ngành chè, thì ngày 30/7/2025, HĐND tỉnh đã ban hành Nghị quyết số 08/2025/NQ-HĐND về chính sách hỗ trợ phát triển ngành chè. Nghị quyết này được coi là “cú hích kép”, cụ thể hóa chủ trương của Tỉnh ủy bằng những cơ chế hỗ trợ thiết thực. Theo đó, Thái Nguyên sẽ bố trí hơn 500 tỷ đồng để thúc đẩy sản xuất, chế biến, nâng cao giá trị sản phẩm và khai thác tiềm năng du lịch gắn với cây chè.
Các chính sách hỗ trợ được thiết kế cụ thể và toàn diện. Tỉnh hỗ trợ 100% kinh phí mua giống chè để trồng mới hoặc trồng thay thế. Với phân bón, ngân sách sẽ hỗ trợ một lần 70% kinh phí mua phân bón hữu cơ, hữu cơ vi sinh cho năm đầu trồng mới.
Ngoài ra, tỉnh còn hỗ trợ chứng nhận tiêu chuẩn thực hành sản xuất nông nghiệp tốt (VietGAP hoặc GAP khác), với mức 100% kinh phí chứng nhận lần đầu, tối đa 6 triệu đồng/ha; đồng thời, hỗ trợ 100% kinh phí cấp lại chứng nhận, tối đa 4 triệu đồng/ha đối với các tổ chức, cá nhân đáp ứng điều kiện về quy mô sản xuất chè.
Đây chính là nền tảng quan trọng để ngành chè Thái Nguyên phát triển toàn diện theo hướng bền vững, gia tăng giá trị và khẳng định thương hiệu trên thị trường. Những chính sách hỗ trợ này đang trở thành động lực trực tiếp cho các vùng chè trọng điểm, đồng thời mở ra cơ hội phát triển ổn định, lâu dài cho người trồng chè, HTX và địa phương.
Với nhiều cơ chế, chính sách hỗ trợ cụ thể giúp các HTX có cơ hội mở rộng quy mô, nâng cao hiệu quả sản xuất. Trong ảnh: Đóng gói sản phẩm tại HTX chè La Bằng.
Xã La Bằng hiện có hơn 1.135ha chè, năng suất chè búp tươi bình quân đạt khoảng 138 tạ/ha. Trên địa bàn có 1 công ty và 13 hợp tác xã tham gia sản xuất, chế biến, nhiều đơn vị đã mạnh dạn áp dụng công nghệ như máy sao chè sử dụng điện, máy đóng gói liên hoàn... góp phần nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm. Không chỉ tập trung vào sản xuất, các HTX còn trực tiếp xây dựng thương hiệu, quảng bá và tiêu thụ sản phẩm, qua đó gia tăng giá trị cây chè và cải thiện đời sống người dân.
Anh Đỗ Hữu Thuận, Chủ tịch Hội đồng quản trị kiêm Giám đốc HTX Tân Trà Việt (xã La Bằng), cho biết: Các chính sách như cấp mã số vùng trồng, chứng nhận VietGAP, hữu cơ hay đầu tư máy móc hiện đại sẽ giúp HTX nâng cao năng lực sản xuất, tạo ra sản phẩm chất lượng cao, đủ sức cạnh tranh. Đây cũng là động lực để các HTX gắn sản xuất với xây dựng thương hiệu, mở rộng kênh tiêu thụ trong và ngoài nước.
Ông Dương Văn Vượng, Phó Chủ tịch UBND xã La Bằng, cho biết: Xã đặt mục tiêu đến năm 2030 đạt hơn 16.000 tấn chè búp tươi, với giá trị sản phẩm bình quân khoảng 680 triệu đồng/ha. Địa phương định hướng 70% diện tích chè đạt chứng nhận VietGAP hoặc hữu cơ, 70% diện tích được cấp mã số vùng trồng; xây dựng ít nhất 3 sản phẩm OCOP 3-4 sao và 1 sản phẩm OCOP 5 sao. Các chính sách hỗ trợ được triển khai sẽ trở thành cơ hội lớn để La Bằng hiện thực hóa mục tiêu phát triển cây chè theo hướng an toàn, bền vững.
Không chỉ dừng ở cây chè xanh truyền thống, các chính sách mới còn tạo cơ hội phát triển cho giống chè Shan tuyết đặc sản của địa phương. Tại xã Đồng Phúc hiện có 340ha chè Shan tuyết, trong đó 316ha đã cho thu hoạch, 10ha được canh tác theo tiêu chuẩn VietGAP và 10ha đạt chuẩn hữu cơ.
Với hương vị đặc trưng và giá trị kinh tế cao, chè Shan tuyết ngày càng khẳng định vị thế là cây trồng chủ lực trong cơ cấu sản xuất nông nghiệp của xã, đồng thời mang lại nguồn thu nhập ổn định cho hàng trăm hộ dân.
Chính sách hỗ trợ của tỉnh mở ra cơ hội để cây chè Shan tuyết phát triển bền vững. Trong ảnh: Người dân xã Đồng Phúc thu hái chè Shan tuyết.
Việc ban hành các nghị quyết hỗ trợ chính là động lực quan trọng, tạo điều kiện để giống chè đặc sản này phát triển bền vững, từ khâu đầu tư giống, áp dụng kỹ thuật canh tác đến xây dựng thương hiệu và xúc tiến thương mại. Qua đó, chè Shan tuyết ở xã Đồng Phúc không chỉ khẳng định vị thế trong tỉnh mà còn mở rộng cơ hội vươn ra các thị trường lớn, đóng góp tích cực vào mục tiêu nâng cao giá trị ngành chè Thái Nguyên.
Bà Triệu Thị Mỳ, hộ trồng chè Shan tuyết ở thôn Nà Bay, xã Đồng Phúc, chia sẻ: Người dân mong các chính sách hỗ trợ sớm đi vào thực tế, đặc biệt là đầu tư máy móc chế biến, chứng nhận VietGAP, hữu cơ và quảng bá sản phẩm. Với sự đồng hành của Nhà nước, chè Shan tuyết chắc chắn sẽ nâng cao giá trị, tạo niềm tin để bà con gắn bó lâu dài với cây trồng này.
Thời gian qua, với sự đồng hành của chính quyền và nỗ lực của người dân, xã Đồng Phúc đã đạt nhiều kết quả tích cực trong xây dựng thương hiệu chè Shan tuyết.
Hiện Đồng Phúc có 3 sản phẩm được công nhận OCOP 3 sao và 1 sản phẩm đạt OCOP 4 sao, khẳng định tiềm năng cũng như chất lượng của đặc sản chè nơi đây.
Ông Triệu Đức Thông, Phó Chủ tịch UBND xã Đồng Phúc, cho biết: Các nghị quyết hỗ trợ của tỉnh là cơ hội lớn để địa phương nâng cao giá trị chè Shan tuyết. Xã sẽ tận dụng tối đa nguồn lực để mở rộng diện tích đạt chứng nhận VietGAP, hữu cơ; đầu tư công nghệ chế biến hiện đại cho HTX, người dân nhằm đẩy mạnh chế biến sâu, tăng giá trị. Đồng thời, xã định hướng gắn phát triển chè Shan tuyết với du lịch cộng đồng, tạo sinh kế bền vững cho người dân.
Việc Thái Nguyên ban hành 2 nghị quyết quan trọng chính là “cú hích kép” tạo nguồn lực mạnh mẽ để người dân, doanh nghiệp và HTX đầu tư sản xuất theo hướng an toàn, hữu cơ, đồng thời thúc đẩy chế biến sâu và đa dạng hóa sản phẩm. Với chiến lược này, tỉnh đặt mục tiêu đến năm 2030 nâng giá trị sản phẩm chè lên 25 nghìn tỷ đồng, khẳng định vị thế “thủ phủ chè” của Việt Nam và từng bước mở rộng dấu ấn trên thị trường quốc tế.
Mục tiêu phát triển ngành chè Thái Nguyên đến năm 2030 theo Nghị quyết số 11-NQ/TU của Tỉnh ủy:
Diện tích chè toàn tỉnh đạt khoảng 24.500ha, sản lượng búp tươi đạt trên 300.000 tấn. 70% diện tích chè được chứng nhận sản xuất theo tiêu chuẩn GAP, hữu cơ, 70% diện tích được cấp mã số vùng trồng. 100% cơ sở sản xuất, chế biến, kinh doanh chè bảo đảm quy định an toàn thực phẩm.
100% doanh nghiệp, hợp tác xã có vùng nguyên liệu ứng dụng công nghệ số trong toàn bộ quá trình sản xuất, chế biến, bảo quản và tiêu thụ, bảo đảm minh bạch, truy xuất nguồn gốc. Ít nhất 250 sản phẩm trà được chứng nhận OCOP 3-5 sao, trong đó có tối thiểu 6 sản phẩm đạt OCOP 5 sao. 100% sản phẩm trà và sản phẩm từ chè được thương mại hóa trên các nền tảng số.
Nhóm P.V