Các chữ: tu, tàm, sỉ, ố, quý, sạ gần nghĩa đều hiểu là thẹn, hổ thẹn, xấu hổ. Mạnh Tử phát triển thành thuyết "tứ đoan" (bốn mối) với "trắc ẩn" (thương cảm); "tu ố" (thẹn, ghét); "từ nhượng" (kính nhường); "thị phi" (lẽ phải trái). Tức bốn cây cột của ngôi nhà nhân cách người.
Tượng đài Hưng Đạo đại vương.
Một mẫu số chung của văn hóa nhân loại: Làm người phải biết xấu hổ. Theo Kinh Cựu ước, thuở hồng hoang, Thượng đế tạo ra Adam và Eva, đặt ở vườn Địa Đàng cho phép họ ăn mọi thứ hoa trái, trừ cây "biết lành, biết dữ". Nghe Satan dụ dỗ Eva hái trái cấm và trao cho Adam cùng ăn. Vừa ăn xong, liền nhận ra cơ thể trần truồng, xấu hổ quá, cả hai liền vội lấy lá cây che thân. Như vậy, khi đã là người trần tục, thì "xấu hổ" là điều phải quan tâm đầu tiên. Đây cũng là đặc trưng để phân biệt con người với con vật. Mạnh Tử nói câu trên chắc là nhấn vào ý này.
Phương Đông vẫn coi trước tác Khổng Mạnh là miền thượng nguồn đạo đức, từ đó dòng phù sa "xấu hổ" bồi đắp làm phì nhiêu các đồng bằng văn hóa đạo lý. Trong từ vựng tiếng Việt, chữ "thẹn" được dùng nhiều hơn. Thời nào, người nào ý thức nhiều và sâu sắc về chữ này, sẽ là thời nổi tiếng, là danh nhân.
Ở ta, triều Trần vẻ vang là thời như vậy. "Hịch tướng sĩ" của Trần Quốc Tuấn dùng chữ "thẹn" để răn dạy tướng sĩ biết lòng tự trọng của "tướng triều đình": "Nay các ngươi ngồi nhìn chủ nhục mà không biết lo; thân chịu quốc sỉ mà không biết thẹn. Làm tướng triều đình đứng hầu quân man mà không biết tức; nghe nhạc thái thường đãi yến sứ ngụy mà không biết căm".
Theo Đại vương, người tướng phải "biết" 4 điều: biết lo, biết thẹn, biết tức, biết căm. Cũng như bốn chân cột, bốn điều này càng vững thì ngôi nhà nhân cách tướng sĩ mới khỏe khoắn, mạnh mẽ được. Bài thơ "Thuật hoài" của Phạm Ngũ Lão là nỗi thẹn lớn lao của bậc danh tướng, dù đã tung hoành gìn giữ non sông mấy năm, thế mà vẫn còn "thẹn": "Cắp ngang ngọn giáo gìn giữ non sông đã mấy thu/ Ba quân như gấu hổ, át cả sao Ngưu Đẩu/ Nam nhi chưa trả xong nợ công danh/ Ắt hổ thẹn khi nghe kể chuyện Vũ hầu".
Một tướng tài, từng cùng Trần Quang Khải đánh thắng trận Chương Dương, Hàm Tử. Từng phục kích ở Vạn Kiếp diệt hai tướng giặc Lý Hằng, Lý Quán. Từng phục kích ở sông Bạch Đằng bắt sống tướng chỉ huy Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp, Áo Lỗ Xích. Từng cất quân trừng phạt quân Ai Lao xâm lấn bờ cõi. Từng đánh thắng quân Chiêm lấn đất phương nam, buộc vua Chế Chí đầu hàng… Một người được phong chức Điện súy, tước Quan nội hầu. Một sự nghiệp hiếm có như thế mà so với Gia Cát vẫn còn thấy thẹn, thì cái thẹn ấy quả là một khát vọng cống hiến vĩ đại.
Trên Tạp chí Hán Nôm (số 5/2011), PGS.TS Nguyễn Công Lý có bài "Thêm hai bài thơ chữ Hán của Ức Trai tiên sinh" khẳng định bài "Ngự chế tao ngộ thi phụng họa", Nguyễn Trãi họa bài "Ngự chế tao ngộ thi" của Lê Thái Tông. Mùa thu năm Nhâm Tuất (1442), nhân đi tuần du và duyệt binh ở Chí Linh, nhà vua ghé Côn Sơn thăm Nguyễn Trãi và làm bài thơ trên. Nguyễn Trãi liền họa lại.
Xin trích bốn câu đầu: "Phảng phất quân thiên mộng kỷ hồi/ Sơn trung kinh hỷ thúy hoa lai/ Di châm thâm cảm tiên triều cựu/ Định sách đa tâm tá trị tài" (Đã bao lần trong mộng tưởng lòng hướng về ngôi cao/ Khắp vùng núi, vừa sợ vừa mừng thấy kiệu thúy hoa tới/ Khắc sâu lời thánh đế răn bầy tôi triều trước/ Lòng muốn định nhiều sách lược mà thẹn vì bất tài". Câu 4 rất đáng chú ý. Không bàn đến chuyện "khiêm cung", "khiêm tốn", chỉ nhìn vào sự nghiệp "kinh bang tế thế" lẫy lừng của vị anh hùng dân tộc, thế mà Ức Trai vẫn còn thấy "thẹn" vì cho rằng mình bất tài. Càng thấy tấm lòng, chí khí Nguyễn Trãi quá lớn lao.
Có lẽ người dùng nhiều nhất chữ mang nghĩa thẹn là Nguyễn Bỉnh Khiêm. Phải chăng là bậc hiền triết, uyên bác văn chương, thấu tỏ đường đời, thấu cảm lẽ người, nhận thấy tương lai… mà ông "thẹn" cho chính mình. Cũng đúng với quy luật nhận thức càng biết nhiều càng thấy giới hạn của mình.
Trong bài "Thời Kim Thành hữu nhân Nguyễn Công dĩ điều vãng hốt lai trào dư, dư nhân phú nhất luật giải trào vân" (Lúc bấy giờ có người bạn là Nguyễn Công ở Kim Thành lấy việc "chợt đến chợt đi" làm thơ đùa ta, ta nhân làm một bài thơ luật giải trào rằng), ông viết: "Tiết tàm điều vãng hốt lai tần/ Tiết tiết đồ lao lão bệnh thân" (Về tiết tháo, thẹn việc "chợt đi chợt đến" liên tiếp/ Miệt mài uổng nhọc tấm thân già bệnh). Ý nói "thẹn" (tàm) cho mình việc đi ở ẩn rồi lại ra làm quan liên tục, chưa mang lại ích lợi gì. Chỉ làm thân thêm già nua.
Ông trần tình: "Thảo am cao ngọa bạch vân trù/ Dã tính dung sơ diệc tự tu…/ Nguy hành khẳng vi thanh tiết lũy/ Khiết thân sỉ dữ tục trần lưu/ Phủ ngưỡng thiên nhân vô quý sạ/ Hiêu nhiên thùy oán hựu thùy vưu" (Nằm cao ở am cỏ, mây trắng dày/ Tính quê thô sơ, lười biếng, mình cũng tự thẹn (tu)…/ Hành vi chính trực nguyện được tiết tháo thanh cao bồi đắp cho/ Tấm thân trong sạch thấy xấu hổ (sỉ) khi hòa cùng đám trần tục/… Ngẩng lên, cúi xuống đều không xấu hổ (sạ) với trời và người/ Oán trách ai đây? Trách móc ai đây?). Ông "thẹn" vì "tính quê thô sơ" (quê mùa); vì sống cùng đám tham công danh phú quý. Nhưng chính vì nhờ thế mà "Ngẩng lên, cúi xuống" không "thẹn" với trời và người.
Luận ngữ có câu: "Tử viết: Bất oán thiên, bất vưu nhân; hạ học nhi thượng đạt, tri ngã giả, kỳ thiên hồ?" (Không oán trời, không trách người; (ta) học người để đạt đạo trời, trời có biết thế chăng?). Một so sánh kín đáo của Trạng Trình với cổ nhân. Cũng là tiếng cười tự trào lắng vào trong: (Ta) cũng không thẹn với trời đất, vì ta biết "thẹn" với trời với người. Bật ra một ý vị triết lý thâm thúy, kín đáo: Con người biết thẹn thì không thẹn với ai cả, với cả trời, cả đất. Phải chăng ý của nhà giáo dục Nguyễn Bỉnh Khiêm là ở chỗ này: phải giáo dục tính thẹn để con người ta không hổ thẹn với ai!
Nhà yêu nước Phan Bội Châu (1867 - 1940).
Đến bài "Quy lão ký Lại bộ Thượng thư Kế Khê Bá" (Về hưu gửi cho quan Thượng thư Bộ Lại Kế Khê Bá Giáp Hải), cái "thẹn" theo kiểu khác: "Điểm kiểm hành niên thất thập tam/ Huyền xa sai vãn dã ưng tàm" (Đếm tuổi đã bảy mươi ba/ Về hưu hơi muộn, cũng nên thẹn). Ngày ấy bảy mươi ba về hưu chắc chỉ mình ông. Không phải vì ông muốn vậy, mà vì có tài, triều đình rất cần ông. Cuối cùng cũng từ được quan, nhưng thấy "thẹn". Thế thì đó là cái "thẹn" của lòng tự trọng.
Ở một bài thơ gửi bạn khác, ông viết: "Cố ngã ưng tàm mãi phú kim/ Sơn Đẩu vị phu đa sĩ vọng" (Ngoảnh lại thấy tôi đáng thẹn (tàm) vì tiền mua phú/ Chưa đáng với sự mến mộ, đề cao như Thái Sơn, Bắc Đẩu). Thời ấy, Trạng Trình được ca ngợi như "Sơn Đẩu". Có thể hiểu ông "thẹn" vì cho rằng thơ phú mình làm ra như đi mua vậy. Mà đi mua thì phải có tiền, tức "tầm thường" rồi. Thế nên không xứng với lòng mến mộ của mọi người.
Mấy trăm năm sau, Nguyễn Khuyến cũng "thẹn", giống với cái "thẹn" của tiền nhân: "Ơn vua chưa chút đền công/ Cúi xuống hổ đất, ngửa trông thẹn trời" (Di chúc). Trong "Thu vịnh" có hai câu kết: "Nhân hứng cũng vừa toan cất bút/ Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào". Đào Tiềm đời Tấn (Trung Quốc), tự Uyên Minh, đỗ tiến sĩ, làm huyện lệnh Bành Trạch, nổi tiếng thơ hay, nhưng treo ấn từ quan để có bài "Quy khứ lai từ" sống mãi nói về về phẩm chất thanh cao. Nguyễn Khuyến "thẹn" vì sự nghiệp chưa được như Uyên Minh hay chưa thanh cao bằng Uyên Minh dứt khoát "quy khứ lai từ" (hãy về đi thôi)…
Thực dân Pháp xâm lược nước ta. Thơ văn các vị chí sĩ đau đáu một chữ "thẹn": "Thẹn cùng sông, buồn cùng núi, tủi cùng trăng" (Phan Bội Châu - "Bài ca chúc Tết thanh niên"). Với quan niệm: "Non sông đã chết, sống thêm nhục", các tác giả Phan Châu Trinh, Trần Quý Cáp, Huỳnh Thúc Kháng trong "Lương ngọc danh sơn phú" lấy cái "thẹn" để thức tỉnh người dân ý thức về nỗi nhục mất nước: "Than ôi! Huyết khí đã có/ Gan ruột sao không/ Thẹn cùng trời đất/ Hổ với non sông".
Người Việt rất tinh tế gói gọn 4 chữ : "Xấu chàng hổ ai" nhưng nghĩa thì lớn lao vô cùng: người thân chưa tốt, gia đình bần hàn, đất nước chưa giàu, ai ai cũng hổ thẹn. Chữ "thẹn" chính là một mã đạo lý làm người trong văn hóa Việt!
Nguyễn Thanh Tú